TỔNG QUAN
Tăng tiết mồ hôi là một rối loạn thần kinh tự chủ mãn tính gây khó chịu và thường xuyên tái phát.
Tăng tiết mồ hôi có thể là nguyên phát, thường là khu trú và hai bên, hoặc thứ phát, thường là toàn thân.
Tăng tiết mồ hôi khu trú thường vô căn và khu trú ở lòng bàn tay, lòng bàn chân, nách hoặc các vùng mặt.
Chứng tăng tiết mồ hôi nguyên phát có thể là một rối loạn di truyền trội trên nhiễm sắc thể thường. Tăng tiết mồ hôi toàn thân thường liên quan đến thuốc hoặc tình trạng toàn thân.
Tăng tiết mồ hôi nách (axillary hyperhidrosis) tăng tiết mồ hôi quá mức khu trú ở nách trong việc điều chỉnh nhiệt độ, có thể từ hơi ướt nhẹ đến nhỏ giọt nhiều.
Sự tăng tiết mồ hôi quá mức có thể làm trầm trọng hơn nhiều tình trạng da tại chỗ, gây khó chịu trong sinh hoạt do quần áo bị ố màu hoặc đôi khi có mùi hôi, trầm cảm, và lo lắng về mặt xã hội cùng với chất lượng cuộc sống bị giảm sút.
CÁC TUYẾN MỒ HÔI
Có ba loại tuyến mồ hôi ở nách: tuyến eccrine, apocrine và apoeccrine.
Các tuyến eccrine bắt đầu hoạt động ngay sau khi sinh. Các tuyến apocrine chỉ bắt đầu hoạt động khi có sự kích thích của hormone ở tuổi dậy thì.
Tổng số tuyến mồ hôi ở một người thay đổi từ hai đến bốn triệu với mật độ cao hơn ở lòng bàn tay, lòng bàn chân và nách.
Các tuyến eccrine được chi phối bởi các dây thần kinh cholinergic và giao cảm sau hạch, nằm dưới sự kiểm soát của vùng dưới đồi.
Acetylcholine là chất dẫn truyền thần kinh chính, với rất ít sự đóng góp của norepinephrine kích thích các đầu adrenergic, khác với tất cả các dây giao cảm sau hạch khác là giải phóng norepinephrine. Kích thích cholinergic của thụ thể muscarinic khởi phát sản xuất mồ hôi.
Các tuyến apocrine được chi phối bởi các dây thần kinh giao cảm sau hạch với norepinephrine là chất dẫn truyền thần kinh chính và do đó chúng đáp ứng với việc đổ mồ hôi theo cảm xúc.
Các tuyến mồ hôi ở nách được kích hoạt bởi các kích thích cảm xúc và nhạy cảm với nhiệt, kích hoạt các trung tâm mồ hôi ở vùng dưới đồi. Trung tâm chịu trách nhiệm đổ mồ hôi cảm xúc được điều khiển bởi vỏ não và khác với các trung tâm đổ mồ hôi khác, nhận tín hiệu đầu vào từ các kích thích nhạy cảm với nhiệt.
ĐIỀU TRỊ
Trọng tâm của việc kiểm soát chứng tăng tiết mồ hôi là chẩn đoán tình trạng, xác định nguyên nhân và xác định vị trí.
Tiêu chuẩn chẩn đoán của bệnh tăng tiết mồ hôi bao gồm: đổ mồ hôi quá nhiều kéo dài ít nhất 6 tháng không có nguyên nhân, cộng thêm ít nhất hai tiêu chí: tuổi khởi phát dưới 25 tuổi, ngừng đổ mồ hôi khi ngủ, đổ mồ hôi hai bên, kiểu đối xứng với ít nhất có một đợt kéo dài một tuần hoặc có tiền sử gia đình.
Có các lựa chọn điều trị an toàn và hiệu quả, tuy nhiên không có cách chữa khỏi hoàn toàn.
ĐIỀU TRỊ TẠI CHỖ
Là lựa chọn điều trị đầu tiên cho tăng tiết mồ hôi nách vì dễ thực hiện, hiệu quả- chi phí phù hợp.
– Thuốc chống tiết mồ hôi: có chứa ion nhôm như nhôm clorua hay nhôm hexahydrat. Các ion nhôm được cho là kết tủa mucopolysaccharides, làm tổn thương các tế bào biểu mô của ống dẫn tuyến mồ hôi, làm tắc nghẽn lòng ống, chặn các lỗ mở của tuyến mồ hôi một cách cơ học và ngăn mồ hôi thoát ra. Các nút bị bong ra khi tiết ra nhiều mồ hôi hơn nên cần phải bôi lại sau 6–8 giờ. Chúng được sử dụng trên da khô khi ngủ, có thể gây kích ứng da nhẹ và thoáng qua.
– Thuốc kháng cholinergic tại chỗ: thuốc xịt hoặc dung dịch glyccopyrrolate 1%–2% đã được sử dụng với mức độ thành công khác nhau.
– Botulinum toxin tại chỗ: botulinum toxin A tại chỗ kết hợp với peptide vận chuyển đã được sử dụng trong một nghiên cứu ngẫu nhiên, mù đôi, đối chứng cho thấy giảm khả năng tiết mồ hôi 65%.
– Liệu pháp áp lạnh: sử dụng thiết bị đầu phun lạnh oxit nitơ bề mặt cũng được thử nghiệm để làm tổn thương lạnh các tuyến mồ hôi, kết quả chấp nhận được và tác dụng phụ gồm có vùng hoại tử nhỏ.
– Thuốc dùng tại chỗ mới hơn: myricetin được vận chuyển bằng hạt nano lipid, một loại flavonoid có tác dụng ức chế phức hợp SNARE được chứng minh là có tác dụng giảm tiết mồ hôi sau khi bôi lên da. Gel sofpironium bromide 5% bôi lên nách một lần mỗi ngày vào ban đêm đã chứng minh tính hiệu quả và an toàn trong một nghiên cứu trong sáu tuần ở 281 bệnh nhân Nhật Bản.
ĐIỀU TRỊ TOÀN THÂN
Thuốc uống được dành riêng cho các trường hợp kháng trị hoặc tăng tiết mồ hôi toàn thân.
– Thuốc kháng cholinergic: là những loại thuốc uống được sử dụng nhiều nhất, tuy nhiên 1/3 số bệnh nhân ngừng điều trị do tác dụng phụ, không được FDA Hoa Kỳ chấp thuận. Liều lượng được tăng dần để cải thiện khả năng dung nạp. Các tác dụng phụ bao gồm làm khô dịch tiết, tăng thân nhiệt, hạ huyết áp thế đứng, chóng mặt, buồn ngủ và mờ mắt. Chúng chống chỉ định ở những bệnh nhân bị hẹp môn vị, liệt ruột và nhược cơ.
– Thuốc chủ vận alpha-adrenergic: clonidine, một chất chủ vận adrenergic alpha-2, làm giảm dòng chảy giao cảm và giảm tiết mồ hôi do tăng tiết mồ hôi tại chỗ bộc phát, có thể gây hạ huyết áp.
– Thuốc chẹn kênh canxi và các loại thuốc khác: các chất này ức chế sự giải phóng acetylcholine phụ thuộc vào canxi và giúp giảm tiết mồ hôi. Các loại thuốc uống tiềm năng khác là thuốc chẹn beta và các thuốc benzodiazepin làm giảm chứng tăng tiết mồ hôi liên quan đến lo âu.
– Phương pháp điều trị tiêm: botulinum toxin (BTX) hoạt động bằng cách ngăn chặn acetylcholine ở synap thần kinh cơ. OnabotulinumtoxinA được FDA Hoa Kỳ phê chuẩn trong điều trị tăng tiết mồ hôi nách nguyên phát nặng. Một số chống chỉ định đối với việc sử dụng BTX là rối loạn thần kinh cơ, dị ứng với bất kỳ thành phần nào của BTX, mang thai và cho con bú. Tiêm ở mức dưới da và không tiêm hơn 400U onabotulinum trong khoảng thời gian 4 tháng, hiệu quả chỉ kéo dài 4-9 tháng. Đau tại chỗ tiêm là phổ biến và ngứa nách, nhức đầu và đau nhức cơ vai ít được báo cáo là tác dụng phụ thoáng qua. Một nghiên cứu cho thấy rằng với 75 U BoNTA được hỗ trợ bởi laser fractional CO2 đưa vào lớp bì ở lòng bàn tay bên phải tương đương về mặt lâm sàng với 50 U tiêm vào bên trái của 30 bệnh nhân trưởng thành mắc bệnh tăng tiết mồ hôi lòng bàn tay vô căn. Nghiên cứu đã chứng minh rằng liệu pháp lặp đi lặp lại bằng cách tiêm botulinum toxin giúp giảm đáng kể lượng mồ hôi và cải thiện chất lượng cuộc sống.
ĐIỀU TRỊ BẰNG THIẾT BỊ
– Vi sóng: nhiệt phân tuyến mồ hôi bằng vi sóng đã được sử dụng để điều trị chứng tăng tiết mồ hôi. MiraDry® là thiết bị được FDA Hoa Kỳ phê chuẩn cho mục đích này.
– Điện di ion: điện di ion bằng nước sinh hoạt là phương pháp điều trị an toàn và tiết kiệm chi phí đã được FDA Hoa Kỳ phê duyệt đối với bệnh tăng tiết mồ hôi ở lòng bàn tay, và các điện cực nách đặc biệt đã được phát triển để sử dụng trong tăng tiết mồ hôi nách. Phương pháp điều trị này sử dụng dòng điện qua vùng da không bị tổn thương ngâm trong chất nước. Có nhiều lý thuyết khác nhau được đề xuất về cơ chế hoạt động của phương pháp điều trị này từ việc giảm độ pH do tích tụ ion H+, tắc nghẽn kích thích thần kinh giao cảm, can thiệp vào gradient điện hóa của mồ hôi, tắc nghẽn bài tiết mồ hôi và dòng chảy do nút tăng sừng. Các lần điều trị duy trì được thực hiện từ một đến bốn tuần một lần sau khi đạt được tình trạng giảm tiết mồ hôi trong sáu đến mười lăm lần điều trị. Nước sinh hoạt có thể được thay thế bằng nhôm clorua, chất kháng cholinergic hoặc botulinum toxin để đạt được kết quả tốt hơn. Nước muối được chứng minh là hiệu quả hơn nước sinh hoạt trong một nghiên cứu. Bệnh nhân đang mang thai, cấy ghép kim loại, máy điều hòa nhịp tim hoặc bị động kinh không thể điều trị. Tác dụng phụ là mụn nước thoáng qua, tấy đỏ, dị cảm và khó chịu.
– Tần số vô tuyến: microneedle RF là một phương thức đầy hứa hẹn để điều trị tăng tiết mồ hôi nách. Cơ chế hoạt động của thiết bị là bóc tách các tuyến eccrine bằng cách làm nóng lớp dưới da.
– Liệu pháp ánh sáng: sử dụng hydrogel eosin liposomal tại chỗ kết hợp ánh sáng xung cường độ cao (IPL) cho thấy là phương pháp điều trị an toàn cho tăng tiết mồ hôi nách. Một nghiên cứu dùng laser Nd:YAG 1064 nm xung dài trên một nách và bên còn lại đối chứng, cho thấy sự khác biệt có ý nghĩa thống kê một cách chủ quan và khách quan giữa bên được điều trị và không được điều trị trong ít nhất 9 tháng.
– Sóng siêu âm hội tụ: là phương pháp điều trị hiệu quả và dung nạp tốt cho tăng tiết mồ hôi nách. Cơ chế hoạt động là sóng siêu âm tạo ra sự rung động của các mô dẫn đến tổn thương nhiệt đối với các tuyến eccrine. Bệnh nhân chỉ cảm thấy khó chịu nhẹ thoáng qua trong quá trình thực hiện nhưng không đau. Kết quả kéo dài ít nhất một năm..
– Phun khí dung phản lực: để tránh cơn đau do tiêm trong da, một thiết bị y tế là JetPeel được sử dụng để đưa botulinum toxin qua da.
ĐIỀU TRỊ PHẪU THUẬT
Phẫu thuật được sử dụng khi các phương pháp điều trị thông thường khác thất bại. Các phương pháp phẫu thuật tại chỗ bao gồm cắt bỏ, nạo, hút mỡ, và/hoặc kết hợp các phương pháp này.
– Cắt hạch giao cảm: là biện pháp cuối cùng khi tất cả các liệu pháp khác đều thất bại. Biến chứng lâu dài của phẫu thuật cắt hạch giao cảm là chứng tăng tiết mồ hôi bù trừ, gặp ở 98% bệnh nhân.