Trang chủ

  • Quản lý tiền sản giật: Thuốc chống tăng huyết áp và magnesium sulfate

    Quản lý tiền sản giật: Thuốc chống tăng huyết áp và magnesium sulfate

    Trần Lệ Thủy 1, Lê Hồng Cẩm 2 © Bộ môn Phụ Sản, Khoa Y, Đại học Y Dược TP. Hồ Chí Minh.

    1. Giảng viên, Bộ môn Phụ sản Đại học Y Dược TP. Hồ Chí Minh. e-mail: [email protected]
    2. Phó giáo sư, Trưởng bộ môn, Bộ môn Phụ Sản Đại học Y Dược TP. Hồ Chí Minh, e-mail: [email protected]
    Mục tiêu bài giảng
    Sau khi học xong, sinh viên có khả năng:

    1. Trình bày được cơ chế tác dụng, chỉ định, chống chỉ định, liều dùng, tác dụng phụ của các loại thuốc chống tăng huyết áp 2. Trình bày được cơ chế tác dụng, chỉ định, liều dùng của MgSO4, và xử lý ngô độc MgSO4

    Thuốc trong điều trị tiền sản giật gồm có các thuốc chống tăng huyết áp và thuốc ngừa co giật.

    1. Thuốc chống tăng huyết áp là điều trị nền tảng.
    2. Thuốc ngừa co giật chỉ ngăn cản sự xuất hiện của cơn co giật, mà không tác động lên cơ chế gây co giật, do đó không làm cải thiện cơ chế bệnh sinh. Về bản chất, nó là một thuốc điều trị triệu chứng.

    CÁC THUỐC CHỐNG TĂNG HUYẾT ÁP

    Huyết áp mục tiêu và ổn định huyết áp ở trị số mục tiêu Trong tiền sản giật, co mạch là cơ chế bệnh sinh chủ yếu. Vai trò của điều trị thuốc chống tăng huyết áp là đánh vào nền tảng của cơ chế bệnh sinh.

    Điều trị bằng thuốc chống tăng huyết áp phải đạt được cả hai mục tiêu sau:

    1. Trị số huyết áp mục tiêu phải đạt
    2. Sự ổn định của huyết áp trong suốt quá trình điều trị

    Mục tiêu của điều trị thuốc chống tăng huyết áp là giữ ổn định huyết áp ở một mức độ hợp lý.

    Mục tiêu phải đạt được của điều trị bằng thuốc chống tăng huyết áp là giữ cho huyết áp tâm trương của thai phụ ổn định ở 90-100 mgHg, và huyết áp tâm thu ổn định ở mức 140-150 mgHg.

    Mục tiêu của điều trị thuốc chống tăng huyết áp là ổn định huyết áp ở mức hợp lý chứ không phải là đạt một trị số huyết áp bình thường.

    Bảng 1: Phân loại thuốc chống tăng huyết áp trong thai kỳ
    Thuốc Cơ chế tác dụng Ảnh hưởng
    Alpha methyldopa Ức chế thụ thể Alpha Cung lượng tim không thay đổi, lưu lượng máu tới thận không thay đổi trung ương Sốt, mẹ lơ mơ, viêm gan, thiếu máu tán huyết
    Hydralazin Giãn mạch ngoại vi trực Cung lượng tim tăng, lưu lượng máu tới thận không thay đổi hoặc tăng, mẹ đỏ bừng, đau đầu, nhịp tim tiếp nhanh, hội chứng giống Lupus.
    Giảm cung lượng tim, giảm lưu lượng máu tới thận

    Propranolol Ức chế thụ thể Beta Tăng cơn co tử cung, có thể làm giảm tưới máu nhau-thai

    Suy hô hấp sơ sinh

    Cung lượng tim không thay đổi, lưu lượng máu tới thận không thay đổi

    Labetalol Ức chế thụ thể Alpha, Mẹ run cơ, đỏ bừng, đau đầu. Chống chỉ định ở thai phụ có hen suyễn và suy tim

    Beta

    Suy hô hấp sơ sinh

    Nifedipine Cung lượng tim không đổi, lưu lượng máu tới thận không thay đổi, hạ huyết áp tư thế ở mẹ, đau đầu.

    Ức chế kênh calcium

    Nicardipine Tác dụng ở sơ sinh chưa được ghi nhận đầy đủ.

    Cần thận trọng khi đưa về huyết áp bình thường vì việc này sẽ dẫn đến giảm tưới máu tử cung-nhau, ảnh hưởng nghiêm trọng đến thai.

    Thành phần thứ nhì của mục tiêu điều trị thuốc chống tăng huyết áp là đảm bảo sự ổn định của huyết áp.

    Sau khi đưa huyết áp về trị số mục tiêu, thường thì việc này là không mấy khó khăn, thì mục tiêu khó khăn nhất phải đạt là đảm bảo duy trì được một điều trị nền nhằm ngăn cản mọi sự biến động quá mức của huyết áp.

    Chính vì lẽ này, thuật ngữ thuốc chống tăng huyết áp thể hiện được quan điểm điều trị. Thuật ngữ thuốc hạ áp dễ gây nhầm lẫn là chỉ dùng khi có tăng huyết áp.

    Trong tiền sản giật. thuốc chống tăng huyết áp được chỉ định khi có tình trạng tăng huyết áp nặng.

    • Huyết áp tâm thu ≥ 160 mmHg
    • hoặc Huyết áp tâm trương ≥ 110 mmHg

    Trong các trường hợp nặng, nên dùng thuốc chống tăng huyết áp liều tấn công dạng tiêm mạch chậm, sau đó chuyển dần sang đường uống.

    Trong các trường hợp nhẹ, bắt đầu với chỉ một loại thuốc, với liều thấp ban đầu và tăng liều dần. Nếu không đạt được hiệu quả mong muốn thì sẽ dùng hai nhóm thuốc. Thuốc chống tăng huyết áp trong tiền sản giật

    Bảng dưới đây trình bày tổng quan về các nhóm thuốc chống tăng huyết áp có thể dùng trong tiền sản giật.

    Thuốc lợi tiểu và thuốc ức chế men chuyển không được dùng để kiểm soát huyết áp trong điều trị tiền sản giật.

    Thuốc lợi tiểu làm giảm Na+ và thể tích dịch lưu hành, dẫn đến suy giảm tuần hoàn tử cung-nhau.

    Một cách tổng quát, lợi tiểu không được dùng trong tiền sản giật. Nó chỉ được dùng khi có chỉ đặc biệt như suy thận-vô niệu trong sản giật hay hội chứng HELLP.

    Không dùng thuốc ức chế men chuyển do nguy cơ gây dị tật thai nhi.

    Hydralazin, alpha methyldopa, labetalol, chẹn kênh calcium là các loại thuốc chống tăng huyết áp có thể dùng được.

    Các thuốc được dùng trong điều trị tăng huyết áp đều can thiệp vào các khâu của huyết động đã bị thay đổi trong quá trình bệnh lí:

    1. Làm giảm cung lượng tim: thuốc chẹn β
    2. Làm giảm sức cản ngoại vi: thuốc giãn mạch trực tiếp, thuốc chẹn kênh canxi, thuốc làm liệt giao cảm

    Khi được dùng trong tiền sản giật, mỗi nhóm thuốc trên đều thể hiện những mặt mạnh và yếu của nó.

    Không có thuốc nào là hiệu quả nhất và an toàn tuyệt đối trong điều trị tiền sản giật.

    Hydralazin thường là thuốc chống tăng huyết áp được lựa chọn đầu tay do đánh trực tiếp vào cơ chế bệnh sinh là co thắt tiểu động mạch ngoại vi.

    Alpha methyldopa là thuốc được xem là an toàn nhất trong suốt thai kỳ.

    Labetalol thường được dùng chung với hydralazin để bù trừ lại những tác dụng không mong muốn do giãn mạch nhanh và mạnh của hydralazin.

    Các chất chẹn kênh calcium là thuốc dùng trong những trường hợp tăng huyết áp nặng.

    Thuốc hủy giao cảm: alpha methyldopa [1] (Aldomet®)

    Alpha methyldopa là một trong các thuốc thường được chỉ định trong tiền sản giật.

    Là thuốc phong tỏa tổng hợp dopamin. Cơ chế tác dụng của alpha methyldopa chưa được hiểu thấu đáo. Do thuốc ức chế dẫn truyền dopaminergic, nên gây ra tê liệt dẫn truyền thần kinh ngoại vi điều hòa giao cảm. Thuốc còn có tác dụng trung ương.

    Do tác dụng trung ương, alpha methyldopa có thể gây ra tác dụng phụ gồm trầm cảm, buồn ngủ, chóng mặt, thay đổi chức năng gan…

    Alpha methyldopa không tác dụng trực tiếp lên hoạt động của tim hoặc của thận, không làm giảm sức lọc cầu thận, cung lượng máu thận và phân số lọc.

    Trong tiền sản giật, alpha methyldopa có thể được sử dụng đơn độc hoặc kết hợp với một thuốc giãn mạch khác như hydralazin.

    Alpha methyldopa bị chống chỉ định trong các trường hợp sau: viêm gan cấp tính, mạn tính hoặc xơ gan, tiền sử viêm gan do thuốc, thiếu máu tán huyết, trầm cảm trầm trọng. Thuốc tác dụng trực tiếp trên cơ trơn thành mạch: Hydralazin [2] (Nepressol®)

    Hydralazin đánh trực tiếp vào bệnh sinh của tiền sản giật là co thắt các tiểu động mạch ngoại vi.

    Hydralazin là thuốc gây giãn mạch trực tiếp, tác động trên các tiểu động mạch ngoại vi, là xuất phát điểm của bệnh sinh của tiền sản giật. Vì thế, hydralazin đánh trực tiếp vào bệnh sinh của tiền sản giật là co thắt các tiểu động mạch ngoại vi.

    Tác dụng của hydralazin nhanh và ngắn.

    Sau khi cho hydralazin, huyết áp sẽ hạ sau 10-30 phút và kéo dài trong 2-4 giờ.

    Hydralazin được hấp thu nhanh chóng và hầu như hoàn toàn sau khi uống. Thuốc đạt nồng độ đỉnh trong huyết thanh trong 1-2 giờ sau khi uống thuốc. Thải trừ thuốc qua thận. 70- 90% được đào thải qua nước tiểu trong 24 giờ, chỉ một lượng nhỏ được tìm thấy ở dạng không đổi. Do tác dụng giãn mạch trực tiếp nên có thể dẫn đến mất cân bằng giữa lòng mạch và thể tích huyết tương lưu hành, gây nên tác dụng không mong muốn quan trọng nhất là hạ huyết áp đột ngột có thể gây suy thai.

    Vì các lý do này, nên có xu hướng không dùng hydralazin đơn độc, mà thường kết hợp với một phong tỏa adrenergic alpha khác như labetalol hay propranolol.

    Kết hợp hydralazin và labetalol là một kết hợp có thể khắc phục được các nhược điểm của hydralazin.

    Các tác dụng ngoại ý khác là nhịp tim nhanh, đánh trống ngực, đau thắt ngực, bồn chồn, khó ngủ…

    Ngoài các tác dụng ngoại ý chính trên, còn có hể thấy tiêu chảy, táo bón, buồn nôn, nhức đầu, rối loạn tạo máu, nổi mẫn, ớn lạnh…

    Hydralazin không gây hại cho sản phụ và thai nhi.

    Hydralazin bị chống chỉ định trong các trường hợp quá mẫn với hydralazin, cũng như các bệnh lý mà thay đổi huyết động đột ngột có thể gây nguy hiểm như bệnh động mạch vành, van 2 lá do thấp, phình động mạch chủ cấp. Không dùng hydralazin trong trường hợp có lupus đỏ.

    Thuốc phong tỏa α, β adrenergic: Labetalol [3] (Trandate®)

    Hiếm khi thuốc phong tỏa αβ adrenergic được dùng đơn lẽ trong tiền sản giật.

    Labetalol là thuốc ức chế đồng thời α1 và cả β1 và β2.

    Cơ chế của thuốc là ức chế thụ thể β giao cảm ở tim và mạch máu ngoại vi, do đó làm chậm nhịp tim và hạ huyết áp. Cơ chế này làm cho thuốc thường được dùng chung với hydralazin.

    Thuốc bắt đầu tác dụng sau tiêm tĩnh mạch 5 phút, và mất 1-2 giờ để đạt nồng độ đỉnh trong máu.

    So với hydralazin, labetalol có khởi phát tác dụng nhanh hơn và giảm nguy cơ bị nhịp nhanh.

    Thuốc dùng tốt cho bệnh nhân có kèm đau thắt ngực hoặc nhức nửa đầu.

    Labetalol chống chỉ định ở bệnh nhân suy tim sung huyết, hen suyễn và nhịp chậm xoang.

    Thuốc ức chế kênh calcium: Nifedipin [4] (Adalate®) và Nicardipin 5 (Loxen®)

    Nifedipin là thuốc dạng uống, ức chế kênh calcium loại 2, tức là ức chế chọn lọc dòng canxi đi vào trong cơ trơn mạch máu dẫn đến giãn mạch và hạ huyết áp.

    Nifedipin tác động trên cả các tiểu động mạch lẫn các mạch máu trung bình, nên nó có khởi phát tác dụng nhanh hơn hydralazin.

    Khác với hydralazin, nifedipin tác động trên cả các mạch máu trung bình, nên nó khởi phát tác dụng nhanh hơn hydralazin.

    Như vậy, xét về tác động trên cơ chế bệnh sinh, vai trò của hydralazin và ức chế kênh calcium là không giống nhau.

    Cơ chế này giải thích vì sao nifedipin làm giảm huyết áp mà không ảnh hưởng đến lưu lượng máu qua nhau thai.

    Nifedipin có thêm lợi thế của việc dùng được bằng đường uống.

    Ion Mg++ có khả năng cạnh tranh với ion Ca++ nên phối hợp nifedipin và MgSO4 có thể dẫn đến tụt huyết áp.

    Trong điều trị tiền sản giật có biểu hiện nặng bằng nifedipin phối hợp với MgSO4, buộc phải lưu ý rằng nifedipin có khả năng tương tác với magnesium sulfate. Phối hợp nifedipin và MgSO4 có thể dẫn đến tụt huyết áp.

    Tác dụng không mong muốn nói chung bao gồm tim đập nhanh, nhức đầu và hồi hộp.

    Nicardipin là thuốc hạ áp trong nhóm ức chế kênh calcium. Cơ chế tác dụng của nicardipin tương đối giống với Nifedipin như đã nói ở trên.

    Nicardipin tác dụng chọn lọc lên mạch máu, đồng thời ít tác dụng lên co bóp tim, nên ít làm tăng nhịp tim phản xạ.

    Tác dụng chống tăng huyết áp của nicardipin rất mạnh.

    Nicardipin có thể dùng trong tiền sản giật nặng khi thất bại với các thuốc khác.

    Nicardipin có thời gian bắt đầu tác dụng khoảng 10 phút. Đạt nồng độ đỉnh sau 30-120 phút, tác dụng kéo dài 8 giờ. Thuốc đào thải qua thận 60%, phân 35%, dạng khác 5%. Tác dụng phụ: đau đầu, chóng mặt, buồn nôn, nôn, đau dạ dày. Nicardipin ít qua sữa mẹ.

    Chống chỉ định của nicardipin gồm cơn đau thắt ngực không ổn định hoặc cấp tính, sốc tim, hẹp van động mạch chủ giai đoạn muộn, thận trọng khi dùng trong 2 tam cá nguyệt đầu, có thể dùng trong tam cá nguyệt 3.

    Lợi tiểu quai Henlé: Furosemide (Lasix®)

    Thuốc lợi tiểu được dùng trong trường hợp tiền sản giật rất nặng với thiểu niệu / vô niệu / suy thận, để cứu mẹ.

    Rất hiếm dùng lợi tiểu quai trong thai kỳ, do nguy cơ làm giảm thể tích máu lưu thông làm tuần hoàn tử cung nhau giảm gây ảnh hưởng xấu cho thai nhi, mà về mặt lí thuyết đã giảm ở những thai phụ bị tiền sản giật.

    Tuy nhiên, thuốc lợi tiểu không bị chống chỉ định một cách máy móc, ngoại trừ trong những tình trạng mà sự tưới máu tử cung nhau đã bị giảm (thai chậm tăng trưởng trong tử cung).

    Sử dụng thuốc lợi tiểu được đặt ra trong trường hợp thiểu niệu hoặc vô niệu (nước tiểu 24 giờ < 800 mL, đặc biệt trong trường hợp nước tiểu 24 giờ < 400 mL), đe dọa phù phổi cấp, phù não…

    Trong các trường hợp tiền sản giật rất nặng này, thai phụ thường có biểu hiện suy thận kèm ure và creatinin tăng và độ thanh thải của thận giảm. Khi đó, tính mạng của mẹ là ưu tiên và phải dùng thuốc để cứu thai phụ.

    MAGNESIUM SULFATE[5] (MgSO4)

    Trong tiền sản giật, không dùng diazepam hay pheyltoin.

    Các thuốc chống co giật như diazepam hay pheyltoin là những thuốc chống co giật tác động trên hệ thần kinh trung ương. Khi được dùng trong tiền sản giật, chúng có hiệu quả kém, do sản giật là một bệnh lý mà cơ chế sinh co giật hoàn toàn khác với động kinh. Hơn nữa, chúng có thể có ảnh hưởng xấu trên thai nhi.

    MgSO4 được dùng để phòng ngừa co giật.

    Tại các bản đệm thần kinh-cơ, ion Mg++ trong MgSO4 cạnh tranh với ion Ca++, do đó ngăn cản co giật xuất hiện. MgSO4 còn kích hoạt giãn mạch máu não, làm giảm thiếu máu cục bộ bởi sự co thắt mạch máu não trong cơn sản giật.

    MgSO4 làm cho co giật không thể xảy ra chứ không điều trị bệnh sinh của tiền sản giật.

    MgSO4 ngăn cản co giật hiệu quả, đồng thời không gây nguy hiểm cho thai nhi.

    MgSO4 dễ dàng qua nhau thai và nồng độ trong thai nhi tương tự như ở mẹ.

    Trẻ sơ sinh thường thải trừ hoàn toàn MgSO4 trong vòng 36-48 giờ sau sanh và hầu như không có tác dụng phụ bất lợi cho thai nhi.

    MgSO4 không thay thế cho thuốc chống tăng huyết áp.

    Tuy nhiên, cần nhớ rằng đối với cơn co giật, thì ngoài việc dùng MgSO4 thì hai điều trị nền tảng, căn cơ nhất là:

    1. Điều trị kiểm soát huyết áp.
    2. Chấm dứt thai kỳ sau điều trị nội khoa.

    Chỉ dùng MgSO4 cho tiền sản giật có biệu hiện nặng.

    Cần lưu ý thêm rằng do mục đích của việc dùng MgSO4 là ngừa co giật, mà nguy cơ co giật trong tiền sản giật có biểu hiện nặng là < 2% và trong tiền sản giật không có biểu hiện nặng là < 0.5%, nên không cần dùng MgSO4 cho những bệnh nhân tiền sản giật không có biểu hiện nặng.

    Với các bệnh nhân tiền sản giật không có biểu hiện nặng, việc nghỉ ngơi, theo dõi huyết áp thường xuyên, thực hiện chế độ ăn nhiều đạm, và dặn dò bệnh nhân cách theo dõi triệu chứng của biểu hiện nặng của mẹ là quan trọng nhất. MgSO4 không có tác dụng an thần cho cả mẹ và thai.

    MgSO4 thường được dùng bằng đường truyền tĩnh mạch.

    Hiếm khi dùng MgSO4 qua đường tiêm bắp do đau và có thể gây áp xe vùng chích.

    Luôn chú ý đến dấu ngộ độc MgSO4 khi dùng MgSO4.

    MgSO4 chỉ hiệu quả khi nồng độ Mg++ huyết thanh đã đạt ngưỡng nồng độ điều trị. Để đạt được hiệu quả điều trị, nồng độ Mg++ phải ở trong khoảng 4-6 mEq/L. Trong điều trị, phải duy trì nồng độ ion Mg++ đạt ngưỡng điều trị, nhưng thấp hơn ngưỡng ngộ độc.

    Khi nồng độ MgSO4 vượt ngưỡng, sẽ có ngộ độc MgSO4. Các dấu hiệu của ngộ độc MgSO4 xuất hiện tuần tự theo

    TÀI LIỆU ĐỌC THÊM

    nồng độ trong máu tăng dần của ion Mg++, được trình bày trong bảng 2.

    Bảng 2: Nồng độ Mg++ trong máu (mEq/dL) Biểu hiện
    1.5 – 3 nồng độ bình thuờng
    4 – 6 nồng độ điều trị
    5 – 10 thay đổi trên ECG
    8 – 12 mất phản xạ xuơng bánh chè
    10 – 12 lơ mơ, nói sảng
    15 – 17 liệt cơ, khó thở
    30 ngừng tim

    Nồng độ điều trị của MgSO4 thấp hơn ngưỡng nồng độ mất phản xạ gân xương bánh chè (8-12 mEq/L). Khi nồng độ Mg++ bắt đầu vượt ngưỡng điều trị, dấu hiệu mất phản xạ gân xương bánh chè sẽ là dấu hiệu sớm nhất. Vì thế, cần theo dõi phản xạ gân xương bánh chè như một chỉ báo là nồng độ Mg++ đã vượt ngưỡng điều trị và cần phải ngưng ngay việc dùng thêm MgSO4.

    Ngộ độc MgSO4 được xử lý bằng calcium gluconate.

    Sau khi mất phản xạ gân xương bánh chè, thì giảm hoạt động cơ hô hấp là dấu hiệu tiếp theo sau. Khi có giảm tần số hô hấp dưới 12 lần/phút phải xem là có ngộ độc MgSO4. Khi đó, phải thực hiện giải độc. Luôn phải chuẩn bị chất giải độc MgSO4 là calcium gluconate. Khi có ngộ độc MgSO4, calcium gluconate được dùng với liều 10mL calcium gluconate 10% tiêm mạch trong thời gian không dưới 10 phút và đặt nội khí quản nếu bệnh nhân ngưng thở.

    Xem xét tạm ngưng liều duy trì MgSO4 khi có thiểu niệu.

    Vì MgSO4 chỉ bài tiết qua thận nên phải duy trì lượng nước tiểu thải ra > 25 mL/giờ hoặc 100 mL trong 4 giờ để tránh tích tụ thuốc.

    Ở những thai phụ bị tiền sản giật nặng mà nước tiểu dưới 30 mL mỗi giờ thì cần ngưng dùng khi cung lượng nước tiểu ở dưới ngưỡng này.

    1. Obstetrics and gynecology 8th edition. Tác giả Beckmann. Hợp tác xuất bản với ACOG. Nhà xuất bản Wolters Kluwer Health 2018.

    1. Liều lượng và cách dùng alpha methyldopa, viên 250 mg: Khởi đầu 1-3 viên mỗi ngày, liều tối đa 8 viên mỗi ngày. Dạng thuốc và hàm lượng: Viên nén: 125 mg, 250 mg và 500 mg. Hỗn dịch uống: 250 mg / 5 mL
    2. Liều lượng và cách dùng hydralazin: Hydralazin được dùng đường tiêm mạch chậm với liều đầu 5 mg trong 1-2 phút, nếu sau 15-20 phút không đạt được hạ áp, cho 5-10mg tĩnh mạch chậm tiếp. Nếu sau tổng liều 25 mg mà vẫn không kiểm soát được huyết áp thì nên dùng thuốc khác. Như vậy tổng liều tối đa không quá 25 mg. Dạng thuốc và hàm lượng: Viên nén: 10 mg, 25 mg và 50 mg. Ống tiêm 25 mg / 1 mL
    3. Liều lượng và cách dùng labetalol: Liều boluses 20-80 mg (tối đa 220 mg), sau đó duy trì bằng đường uống 200 mg x 3 lần mỗi ngày, tối đa 800 mg trong 8 giờ.Sau 2-3 ngày điều trị, điều chỉnh tùy vào từng bệnh nhân, thường là 200-400 mg mỗi ngày. Dạng thuốc và hàm lượng: Viên nén 100 mg, 200 mg, 300 mg, Ống tiêm 5 mg / 1mL. Dung dịch tiêm truyền 100 mg / 20mL.
    4. Liều lượng và cách dùng nifedipin: Liều điều trị của nifedipin là 10-20 mg / 20-30 phút (viên uống tác dụng nhanh), tối đa 50 mg. Sau đó 10-20 mg / 4-6 giờ (tối đa không quá 120 mg mỗi ngày) để duy trì huyết áp ở mức mong muốn. Có thể dùng nifedipin viên uống tác dụng kéo dài. Dạng thuốc và hàm lượng: Viên nang mềm: 10 mg, có thể dùng uống, đặt dưới lưỡi. Viên nén bao phim tác dụng chậm 20 mg. Viên phóng thích kéo dài 30 mg hoặc 60 mg 5 Liều lượng và cách dùng nicardipin: Uống 20 mg x 3 lần mỗi ngày. Hoặc truyền tĩnh mạch với liều bolus 0.5-1 mg, sau đó duy trì 2 mg mỗi giờ (pha 1 ống nicardipin trong 40 mL dung dịch Glucose 5%, dùng bơm tiêm điện truyền với tốc độ 10 mL mỗi giờ), chỉnh liều theo huyết áp bệnh nhân. Dạng thuốc và hàm lượng: Viên nang 20 mg, 30 mg. Viên nang tác dụng kéo dài 30 mg, 40 mg, 45 mg, 60 mg. Dung dịch tiêm 10 mg / 10 mL

    5. Cách dùng MgSO4: Liều khởi đầu: 4-6 gram MgSO4 trong 20 phút (6 gram MgSO4 pha trong 100 mL Glucose 5%). Duy trì: 2 gram MgSO4 mỗi giờ (tương đương 40 gram trong 1 lít Lactated Ringer chảy 50 mL/giờ hoặc 20 gram trong 1 lít Lactated Ringer chảy 100 mL/giờ), trong chuyển dạ và sau sanh 12-24 giờ. Ngưng MgSO4 sau sanh 24 giờ, hoặc trong trường hợp có biểu hiện ngộ độc MgSO4.

  • Nhận biết và đánh giá các biến chứng của tình trạng tăng huyết áp thai kỳ

    Nhận biết và đánh giá các biến chứng của tình trạng tăng huyết áp thai kỳ

    Trần Lệ Thủy 1, Nguyễn Hữu Trung 2, Lê Hồng Cẩm 3 © Bộ môn Phụ Sản, Khoa Y, Đại học Y Dược TP. Hồ Chí Minh.

     

    1. Giảng viên, Bộ môn Phụ sản Đại học Y Dược TP. Hồ Chí Minh. e-mail: [email protected]
    2. Giảng viên, Bộ môn Phụ sản Đại học Y Dược TP. Hồ Chí Minh. e-mail: [email protected]
    3. Phó giáo sư, Trưởng bộ môn, Bộ môn Phụ Sản Đại học Y Dược TP. Hồ Chí Minh, e-mail: [email protected]
    Mục tiêu bài giảng
    Sau khi học xong, sinh viên có khả năng:

    1. Mô tả được các biến chứng trên mẹ của bệnh cảnh tiền sản giật
    2. Trình bày được các yếu tố tiên lượng nặng dẫn đến biến chứng của tiền sản giật 3. Mô tả được các biến chứng trên con của tiền sản giật

    Tiền sản giật là một bệnh lý mà đặc trưng của nó là tình trạng co mạch ngoại vi, với hậu quả là tổn thương các mạch máu nội mô.

    Tổn thương nội mạc thành mạch gây thoát quản huyết tương và các thành phần huyết cầu, trong đó có tiểu cầu. Các thành phần thoát quản sẽ kích hoạt một loạt hiện tượng khác xảy ra quanh các mạch máu nội mô như kết tập tiểu cầu, tiêu thụ yếu tố đông máu. Từ đó, gây hàng loạt các biến chứng trên mẹ và thai nhi.

    CÁC BIẾN CHỨNG TRÊN MẸ CỦA TIỀN SẢN GIẬT LÀ HẬU QUẢ CỦA TÌNH TRẠNG CO MẠCH

    GÂY TỔN THƯƠNG NỘI MÔ

    Hoại tử tế bào gan

    Co thắt mạch máu trong gan, với cơ chế như đã trình bày, có hệ quả là tắc nghẽn các mạch máu trong gan (gồm động và tĩnh mạch trong gan) và hoại tử tế bào gan.

    Tắc nghẽn mạch máu trong gan và hoại tử tế bào gan làm căng bao gan (bao Glisson).

    Xuất huyết hoại tử trong gan có thể dẫn đến hình thành khối máu tụ to ở gan.

    Các tổn thương ở gan biểu hiện trên lâm sàng bằng đau vùng thượng vị, buồn nôn, nôn, vàng da. Tình trạng suy tế bào gan thể hiện trên cận lâm sàng bằng tăng bilirubin và tăng men gan.

    Căng bao gan thể hiện qua các triệu chứng lâm sàng gồm đau vùng thượng vị, buồn nôn, nôn.

    Khối tụ máu ở gan có thể vỡ gan. Vỡ gan là một biến chứng hiếm gặp, chỉ gặp ở người lớn tuổi và đa sản.

    Hoại tử và suy tế bào gan thể hiện qua vàng da, tăng men gan và giảm các protein huyết thanh có nguồn gốc từ gan. Cận lâm sàng có tăng bilirubin toàn phần > 1.2 mg%, với men gan tăng cao > 70 UI/L.

    Protid huyết thanh toàn phần giảm là yếu tố tiên lượng nặng khi thai phụ có suy gan.

    Hội chứng HELLP

    Hội chứng HELLP là tình trạng rất nặng, tử vong cao

    Hội chứng HELLP là mức độ nặng của các tổn thương co mạch nội mô, được định nghĩa như một tập hợp của bộ ba triệu chứng gồm tán huyết (Hemolysis), tăng men gan (Elevated Liver Enzyme) và giảm tiểu cầu (Low Plateletes count).

    Các dấu hiệu lâm sàng của hội chứng HELLP gồm đau vùng thượng vị (90%), buồn nôn-nôn (50%), vàng da và tiểu hemoglobin.

    Giảm tiểu cầu là hệ quả của tăng tiêu thụ tiểu cầu do kết tập sau thoát quản.

    Tiêu huyết cũng là một đặc trưng. Hiện diện của hemoglobin niệu gây nước tiểu có màu xá xị, là dấu hiệu của tình trạng nặng.

    Tiêu chuẩn chẩn đoán hội chứng HELLP
    1. Tăng bilirubin toàn phần ≥ 1.2 mg/dL
    2. Giảm tiểu cầu < 100,000 /μL
    3. Tăng men gan SGOT > 70 UI/L

    Hội chứng HELLP được thấy trong 3-12% trường hợp tiền sản giật.

    Tiền sản giật có thể trở nặng nhanh cùng với sự hiện diện của hội chứng HELLP. Tỉ lệ tử vong mẹ rất cao ở thai phụ có hội chứng HELLP, có thể lên đến 24%.

    Suy thận cấp

    Co thắt mạch máu ở thận, với cơ chế như đã trình bày, có thể gây tổn thương vi cầu thận.

    Co thắt mạch thận có thể dẫn đến hoại tử ống thận cấp.

    Tổn thương thận dẫn đến những thay đổi sinh hóa ở thai phụ bị tiền sản giật.

    Ở thai phụ bị tiền sản giật có biểu hiện nặng, tăng tính thấm vi cầu thể hiện qua protein niệu.

    Tiền sản giật rất nặng còn có thể gây co thắt mạnh mạch máu thận, dẫn đến hoại tử ống thận cấp, với biến chứng vô niệu.

    Trong khi đó, hoại tử ống thận được thể hiện bằng biến động tăng cao trong máu của urê, creatinin và acid uric.

    Suy thận cấp là biến chứng thường gặp, là một trong các nguyên nhân gây tử vong mẹ và thai nhi của tiền sản giật.

    Tổn thương cầu thận và ống thận của tiền sản giật có thể gây tử vong cho thai phụ.

    Các tổn thương cầu thận và ống thận còn có thể dẫn đến suy thận mãn sau này.

    Sản giật

    Sản giật là biến chứng nguy hiểm, tỷ lệ tử vong cho mẹ và cho con rất cao.

    Sản giật là một biến chứng cấp tính của tiền sản giật. Xuất độ của sản giật khoảng 1:2000 trường hợp sinh (Hà Lan, Anh).

    Sản giật có thể xảy ra cả trước sinh (25%), trong khi sinh (50%) và sau khi sinh (25%).

    Chẩn đoán sản giật đòi hỏi phải có sự hiện diện của 3 yếu tố (1) những cơn co giật và (2) hôn mê (3) xảy ra trên một bệnh nhân có hội chứng tiền sản giật.

    Phù não có thể gây hôn mê kéo dài sau sản giật. Tình trạng này có thể lan rộng, gây tụt não dẫn đến tử vong.

    Khi đã xảy ra sản giật thì tỷ lệ tử vong cho mẹ và con sẽ rất cao. Tử vong mẹ và thai nhi do tiền sản giật là một trong những yếu tố đóng góp rất lớn vào bệnh suất và tử vong chung của bà mẹ và tử vong chung của trẻ sơ sinh.

    • Tai biến mạch máu não là nguyên nhân chính gây tử vong cho mẹ trong sản giật.
    • Sản giật chiếm khoảng 67.2% nguyên nhân sản khoa gây suy thận cấp đòi hỏi lọc thận.

    Phù phổi cấp

    Phù phổi cấp có thể xuất hiện ở bệnh nhân tiền sản giật do sự kết hợp của giảm áp lực keo và tăng áp tuần hoàn phổi.

    Tiền sản giật với huyết áp rất cao có thể dẫn đến tăng tải thất trái, với hệ quả là suy chức năng thất trái với ứ trệ tiểu tuần hoàn.

    Tuần hoàn phổi ứ trệ sẽ sẵn sàng cho tình trạng thoát dịch vào phế nang một khi có quá tải tuần hoàn, hệ quả của điều trị gây quá tải dịch truyền.

    Phù phổi cấp có thể phát khởi tự nhiên hay sau một thao tác điều trị gây quá tải tuần hoàn.

    Một vấn đề khác có thể phát khởi phù phổi cấp là các tổn thương của viêm phổi hít sau sản giật (viêm phổi hít hay hội chứng Meldenson).

    Xuất huyết não

    Xuất huyết não trầm trọng có thể xảy ra trong sản giật hay sau sản giật gây tử vong.

    Tình trạng xuất huyết não thường có xu hướng xảy ra trên cơ địa tiền sản giật ghép trên nền huyết áp cao mạn, hay cao huyết áp tiềm ẩn. Hiếm khi thấy là do vỡ túi phình mạch hay bất thường khác của các mạch máu.

    Xuất huyết não trầm trọng có thể xảy ra trong sản giật hay sau sản giật. Tình trạng này kèm theo phù não.

    Xuất huyết não cũng có thể để lại di chứng liệt nửa người.

    Mù mắt do tổn thương bong võng mạc hay phù thùy chẩm. Thường có thể hồi phục.

    Một thể đặc biệt của tổn thương thần kinh là mù mắt sau tiền sản giật hay sản giật.

    Mù là do tổn thương bong võng mạc hay do thiếu máu, nhồi máu và phù thùy chẩm. Tổn thương thị giác thường thoáng qua, và hầu hết tình trạng mất hay suy giảm thị lực sẽ phục hồi hoàn toàn trong vòng một tuần.

    Nhau bong non

    Tiền sản giật với dấu hiệu nặng là một trong các nguyên nhân chủ yếu của của nhau bong non. Khoảng 42-46% nhau bong non là biến chứng của tiền sản giật nặng.

    Nhau bong non là hệ quả của co mạch và xuất huyết của màng đệm, với tiên lượng rất nặng cho mẹ và con.

    Nhau bong non được hiểu là nhau bong tróc khỏi diện nhau bám trước khi thai nhi sổ ra ngoài.

    Tình trạng xuất huyết màng đệm gây ra khối huyết tụ sau nhau. Khối huyết tụ sau nhau này to dần, có thể đến 5001,500 gr, làm bong dần bánh nhau (và màng nhau) khỏi thành tử cung. Sự trao đổi giữa mẹ và con sẽ bị gián đoạn, thai sẽ suy rồi chết.

    Nhau bong non là một bệnh lý toàn thân, diễn biến rất nhanh. Do tình trạng xuất huyết và hình thành máu tụ, cơ thể mẹ sẽ rơi vào tình trạng tăng tiêu thụ yếu tố đông máu và tiểu cầu.

    Như vậy, nguyên nhân chảy máu là do rối loạn đông máu và ngược lại chảy máu sẽ gây rối loạn đông máu. Tụ máu trong nhau bong non là một chảy máu tiêu thụ fibrinogen, làm giảm đến mức cạn kiệt fibrinogen, do đó càng gây chảy máu nhiều hơn, với hệ quả cuối cùng là một tình trạng đông máu nội mạch lan tỏa (DIC). Ở trường hợp nặng, sẽ có rối loạn đông máu và choáng.

    Phải nghĩ đến nhau bong non khi một bệnh nhân tiền sản giật có ra huyết âm đạo loãng, bầm, không đông, kèm theo là tử cung co cứng liên tục do bị kích thích bởi tụ máu.

    Trường hợp nặng của nhau bong non có thể gây phong huyết tử cung nhau. Đây là một tình trạng rất nặng, không những chỉ có chảy máu do nhau bong non mà còn có nhồi máu, chảy máu ở tử cung và các phủ tạng khác. Thai nhi sẽ chết, tình trạng mẹ bị đe dọa nghiêm trọng.

    Cần xử trí thật sớm nhau bong non để hạn chế được chảy máu. Máu tươi, fibrinogen… là cần thiết.

    Băng huyết sau sanh

    Băng huyết sau sinh làm trầm trọng thêm rối loạn đông máu đã có trước đó, tạo vòng xoắn bệnh lý dẫn đến tử vong mẹ.

    Ở phụ nữ tiền sản giật, rối loạn đông máu trong cơ chế bệnh sinh làm chảy máu sau sanh càng trở nên nghiêm trọng, lại có thể kèm theo gây đờ tử cung, hệ quả của tử cung bị kích thích quá độ trước đó.

    Mất máu do băng huyết sau sanh càng làm trầm trọng thêm sự rối loạn đông máu đã có trước đó và lại càng gây chảy máu tạo nên một vòng xoắn bệnh lý rất nguy hiểm dẫn đến tử vong mẹ.

    BIẾN CHỨNG TRÊN THAI LIÊN QUAN ĐẾN CHẬM TĂNG TRƯỞNG TRONG TỬ CUNG

    Tử vong chu sinh tăng rất cao do sanh non, ngạt và thai với tăng trưởng giới hạn trong tử cung.

    Tỷ lệ tử vong chu sinh trong tiền sản giật cao gấp 8 lần dân số bình thường.

    Tử vong chu sinh gia tăng trong trường hợp có sanh non, ngạt và thai với tăng trưởng giới hạn trong tử cung.

    Sanh non

    Sanh non là hệ quả của động thái điều trị chấm dứt thai kỳ

    Do tiền sản giật là một bệnh lý được khởi phát từ nhau, nên việc chấm dứt thai kỳ là biện pháp điều trị triệt để nhất trong các trường hợp nặng.

    Chậm tăng trưởng trong tử cung nặng có thể là lý do dẫn đến quyết định chấm dứt thai kỳ khi thai còn non tháng.

    Thai kỳ cũng có thể dẫn đến sanh non tự nhiên như trong trường hợp của nhau bong non. Tuy nhiên, tuyệt đại đa số sanh non trong tiền sản giật là hệ quả của can thiệp điều trị chấm dứt thai kỳ. Tỷ lệ sinh non trong tiền sản giật rất cao, từ 30-40%.

    Sanh non là một gánh nặng trong chăm sóc thai kỳ với tiền sản giật. Mặc dù đã có những tiến bộ đáng kể trong việc nuôi dưỡng trẻ sơ sinh non tháng, nhưng những đứa trẻ

     

    TÀI LIỆU ĐỌC THÊM

    sinh ra quá non và cân nặng thấp có thể có chậm phát triển thể lực và trí tuệ.

    Thai với giới hạn tăng trưởng trong tử cung

    Thai với giới hạn tăng trưởng trong tử cung là hệ quả của bất thường trao đổi qua nhau.

    Thai với giới hạn tăng trưởng trong tử cung là một biến chứng thường gặp, xuất hiện trong khoảng 56% các trường hợp tiền sản giật.

    Tại các vi nhung mao và hồ máu của thai phụ với tiền sản giật, hiện tượng thoát quản, tổn thương thành mạch dẫn đến các lắng đọng của fibrin, kết tập huyết cầu và các thành phần hữu hình quanh các đơn vị này. Các lắng đọng này có thể làm hẹp hay nghẽn mạch, hoại tử dẫn đến suy giảm trao đổi qua nhau, từ đó gây thiếu oxy trường diễn dẫn đến thai thai chậm tăng trưởng hay chết trong tử cung.

    1. Obstetrics and gynecology 8th edition. Tác giả Beckmann. Hợp tác xuất bản với ACOG. Nhà xuất bản Wolters Kluwer Health 2018.

     

  • Nhận biết và đánh giá các bệnh lý tăng huyết áp thai kỳ

    Nhận biết và đánh giá các bệnh lý tăng huyết áp thai kỳ

    Nhận biết và đánh giá các bệnh lý tăng huyết áp thai kỳ

    Nguyễn Vũ Hà Phúc 1, Nguyễn Hữu Trung 2, Lê Hồng Cẩm 3

    © Bộ môn Phụ Sản, Khoa Y, Đại học Y Dược TP. Hồ Chí Minh.

     

    1. Giảng viên, Bộ môn Phụ Sản Đại học Y Dược TP. Hồ Chí Minh, e-mail: [email protected]
    2. Giảng viên, Bộ môn Phụ Sản Đại học Y Dược TP. Hồ Chí Minh, e-mail: [email protected]
    3. Phó giáo sư, Trưởng bộ môn, Bộ môn Phụ Sản Đại học Y Dược TP. Hồ Chí Minh, e-mail: [email protected]
    Mục tiêu bài giảng
    Sau khi học xong, sinh viên có khả năng:

    1. Trình bày được phân loại các bệnh lý tăng huyết áp trong thai kỳ
    2. Chẩn đoán được các bệnh tăng huyết áp trong thai kỳ

    PHÂN LOẠI TĂNG HUYẾT ÁP TRONG THAI KỲ

    Thai kỳ với tăng huyết áp là một nhóm lớn các bệnh lý với bệnh sinh không thuần nhất, đòi hỏi các kế hoạch quản lý khác nhau. Nhận diện, phân loại các bệnh lý tăng huyết áp trong thai kỳ là một bước quan trọng trước khi đề ra một phương thức quản lý thích hợp.

    Căn cứ trên đặc điểm sinh bệnh hoc, vào năm 2013, nhóm chuyên trách về tăng huyết áp thai kỳ thuộc Hiệp hội các nhà Sản Phụ khoa Hoa kỳ (American College of Obstetricians and Gynecologist) (ACOG task force) đề nghị phân các bệnh lý tăng huyết áp thai kỳ ra 4 loại:

    Phân loại tăng huyết áp trong thai kỳ
    1. Hội chứng tiền sản giật-sản giật
    2. Tăng huyết áp thai kỳ
    3. Tăng huyết áp mạn (do bất cứ nguyên nhân nào)
    4. Tiền sản giật ghép trên tăng huyết áp mạn.

    HỘI CHỨNG TIỀN SẢN GIẬT-SẢN GIẬT

    Tiền sản giật là một hội chứng bao gồm tăng huyết áp có kèm đạm niệu xuất hiện sau tuần thứ 20 của thai kỳ.

    Bảng 1: Tiêu chuẩn chẩn đoán tiền sản giật (ACOG Task Force 2013)
    • Huyết áp tâm thu ≥ 140 mmHg HOẶC huyết áp tâm trương ≥ 90 mmHg qua 2 lần đo cách nhau ít nhất 4 giờ xuất hiện sau tuần lễ

    thứ 20 thai kỳ ở phụ nữ có huyết áp bình thường trước đó.

    Huyết áp

    • Huyết áp tâm thu ≥ 160 mmHg HOẶC huyết áp tâm trương ≥ 110 mmHg, tăng huyết áp có thể được xác định trong khoảng thời gian ngắn (vài phút) để thích hợp cho điều trị hạ áp cho bệnh nhân.
    Đạm niệu
    • ≥ 300 mg trong 24 giờ (hoặc lượng đạm này được suy ra từ một khoảng thời gian thu thập nước tiểu tương ứng)  Hoặc tỷ số Protein/creatinin ≥ 0.3.
    • Dip-Stick ≥ 1+ (chỉ sử dụng khi các phương pháp định lượng khác không có sẵn).
    hoặc trong trường hợp không có đạm niệu, tăng huyết áp mới xuất hiện kèm với 1 trong các dấu hiệu mới khởi phát sau:
    Giảm tiểu cầu Tiểu cầu < 100.000 /µL.
    Suy thận Creatinin huyết thanh > 1,1 mg/dL hoặc gấp đôi nồng độ creatinin huyết thanh bình thường mà không có nguyên nhân do bệnh lý thận khác.
    Suy tế bào gan Men gan trong máu tăng gấp 2 lần bình thường.
    Phù phổi
    Các triệu chứng của não và thị giác.

    Đạm niệu là một tiêu chuẩn quan trọng trong chẩn đoán tiền sản giật vì đây là dấu ấn chủ yếu phản ánh tình trạng tổn thương nội mô hệ thống – đặc trưng trong cơ chế bệnh sinh của hội chứng tiền sản giật.

    Tuy nhiên, có khoảng 10% tăng huyết áp thai kỳ xuất hiện cơn co giật nhưng không có đạm niệu.

    Đồng thời, các bằng chứng gần đây cho thấy số lượng đạm niệu không có mối liên quan đến kết cục xấu của thai kỳ.

    Đây là cơ sở của thay đổi tiêu chuẩn chẩn đoán tiền sản giật, đề nghị bởi ACOG.

    Tiêu chuẩn chẩn đoán tiền sản giật, theo ACOG 2013

    Tiêu chuẩn chẩn đoán tiền sản giật dựa vào huyết áp và đạm niệu.

    Bên cạnh tiêu chuẩn này, ACOG khuyến cáo rằng không nhất thiết phải có đạm niệu để chẩn đoán tiền sản giật.

    Khi đạm niệu âm tính, tiền sản giật được chẩn đoán dựa vào huyết áp và một trong những tổn thương đa cơ quan mới xuất hiện.

    Các cơ quan được đề cập đến gồm giảm tiểu cầu, suy thận, suy chức năng gan, phù phổi và triệu chứng thần kinh.

    Tiền sản giật không có dấu hiệu nặng và tiền sản giật có dấu hiệu nặng

    Tiền sản giật được phân ra:

    1. Tiền sản giật không có dấu hiệu nặng
    2. Tiền sản giật có dấu hiệu nặng

    Các phân loại trước nay phân biệt tiền sản giật nhẹ và tiền sản giật nặng.

    Tuy nhiên, do tiền sản giật là một quá trình động, có thể tiến triển rất nhanh, và hơn thế nữa thuật ngữ tiền sản giật nhẹ có thể làm lơ là việc theo dõi bệnh, nên ACOG không còn dùng thuật ngữ tiền sản giật nhẹ nữa.

    Thay cho các thuật ngữ cũ, người ta phân tiền sản giật thành tiền sản giật không có dấu hiệu nặng và tiền sản giật có dấu hiệu nặng.

    Tiền sản giật được xếp vào tiền sản giật có dấu hiệu nặng nặng khi tình trạng tiền sản giật có kèm bất cứ một dấu hiệu bất kỳ trong các dấu hiệu sau:

    ACOG 2013

    Dấu hiệu nặng của tiền sản giật

    (tiền sản giật có bất cứ dấu hiệu nào dưới đây)

    • Huyết áp tâm thu ≥ 160 mmHg hoặc huyết áp tâm trương ≥ 110 mmHg qua 2 lần đo cách nhau ít nhất 4 giờ khi bệnh nhân đã nghỉ ngơi (trừ trường hợp thuốc hạ áp đã được sử dụng trước đó)
    • Giảm tiểu cầu: tiểu cầu <100,000/µL.
    • Suy giảm chức năng gan: men gan tăng (gấp đôi so với bình thường), đau nhiều ở hạ sườn phải hoặc đau thượng vị không đáp ứng với thuốc và không có nguyên nhân khác.
    • Suy thận tiến triển (creatinin huyết thanh > 1.1 mg/dL hoặc gấp đôi nồng độ creatinin huyết thanh bình thường mà không do bệnh lý thận khác)  Phù phổi.
    • Các triệu chứng của não và thị giác.

    Như vậy, theo quan điểm mới của ACOG (2013), đã có 2 tiêu chuẩn cũ của chẩn đoán tiền sản giật nặng đã bị loại bỏ khỏi danh sách các tiêu chuẩn chẩn đoán mới là đạm niệu trên 5 gram trong 24 giờ và thai với tăng trưởng giới hạn trong tử cung [1].

    Tiền sản giật có khởi phát sớm và tiền sản giật có khởi phát muộn

    Thời điểm khởi phát tiền sản giật là một chỉ điểm quan trọng cho kết cục bất lợi của tiền sản giật.

    Người ta phân biệt các tiền sản giật có khởi phát sớm và các tiền sản giật có khởi phát muộn.

    Tiền sản giật khởi phát sớm là các trường hợp tiền sản giật được chẩn đoán trước tuần lễ 34.

    Tiền sản giật khởi phát sớm trước tuần lễ 34 liên quan có ý nghĩa với các kết cục xấu của thai kỳ: tăng tỉ lệ chết chu sinh và chết sơ sinh, tăng nguy cơ của chết thai, sản giật và phù phổi…

    Tiền sản giật khởi phát muộn là các trường hợp tiền sản giật khởi phát từ tuần 34 trở về sau.

    Tiên lượng của tiền sản giật xuất hiện muộn tốt hơn tiền sản giật khởi phát sớm.

    Sản giật

    Sản giật là tình trạng có cơn co giật mới khởi phát trên phụ nữ bị tiền sản giật mà không giải thích được bởi nguyên nhân nào khác.

    Sản giật có thể xảy ra trước, trong hoặc sau chuyển dạ.

    Trong trường hợp một thai phụ bị lên cơn co giật chưa lý giải được và cũng chưa có đủ yếu tố chẩn đoán tiền sản giật, thì phải tạm xem như là sản giật cho đến khi có đủ bằng chứng để kết luận ngược lại.

    Sản giật là một triệu chứng rất nặng của tiền sản giật, thể hiện tình trạng tổn thương nội mô ở não

    Sản giật là hệ quả của các tổn thương nội mô ở não gây bởi tình trạng tiền sản giật.

    TĂNG HUYẾT ÁP THAI KỲ

    Là các trường hợp tăng huyết áp khởi phát sau tuần lễ thứ 20 của thai kỳ và không có đạm niệu.

    Trong tăng huyết áp thai kỳ, huyết áp thường sẽ trở về bình thường sau 12 tuần hậu sản.

    TĂNG HUYẾT ÁP MẠN

    Là các trường hợp tăng huyết áp xuất hiện trước tuần thứ 20 của thai kỳ hoặc tăng huyết áp đã có trước mang thai.

    TIỀN SẢN GIẬT GHÉP TĂNG HUYẾT ÁP MẠN

    Tiền sản giật ghép trên tăng huyết áp mạn là hình thái có tiên lượng xấu nhất trong các hình thái tăng huyết áp trong thai kỳ.

    Tiền sản giật có thể ghép trên tăng huyết áp mạn do bất kì nguyên nhân nào.

    Trên lâm sàng thường chẩn đoán tiền sản giật ghép trên tăng huyết áp mạn trong các tình huống:

    • Tăng huyết áp mạn có đạm niệu mới xuất hiện sau tuần thứ 20 thai kỳ.
    • Tăng huyết áp mạn có đạm niệu xuất hiện trước 20 tuần nhưng huyết áp tăng cao đột ngột hoặc cần phải tăng liều thuốc hạ áp, đặc biệt trên các bệnh nhân đang kiểm soát tốt huyết áp, hoặc mới xuất hiện các dấu hiệu hay triệu chứng khác: đạm niệu tăng đột ngột, tăng men gan, giảm tiểu cầu < 100,000/µL, đau hạ sườn phải, phù phổi…

    HỘI CHỨNG HELLP

    Hội chứng HELLP là một biến chứng nặng của tiền sản giật và sản giật, thể hiện mọi đặc điểm của tổn thương nội mô đa cơ quan.

    Hội chứng HELLP đặc trưng bởi

    1. Tán huyết (Hemolysis)
    2. Tăng men gan (Elevated Liver Enzyme)
    3. Giảm tiểu cầu (Low Platelet Count)

    Triệu chứng đau thượng vị, đau hạ sườn phải là các dấu hiệu lâm sàng của tổn thương chủ mô gan. Huyết đồ với giảm mạnh của tiểu cầu < 100,000 /µL gây ra chảy máu niêm mạc, các chấm xuất huyết dưới da, vết bầm, chảy máu.

     

    Các cận lâm sàng chủ yếu bao gồm:

    1. LDH > 600 IU/L
    2. Bilirubin toàn phần tăng > 1.2 mg%
    3. AST > 70 IU/L
    4. Giảm haptoglobin

    Bệnh cảnh của hội chứng HELLP thường rất nặng, đe dọa nghiêm trọng tính mạng người bệnh.

    Không những nặng, chẩn đoán phải thực hiện trong bối cảnh tổn thương đa cơ quan nên thường rất khó phân biệt với nhiều bệnh lý khác [2].

    TÀI LIỆU ĐỌC THÊM

    1. ACOG Task Force on Hypertension in pregnancy (2013). Hypertension in pregnancy.
    2. Obstetrics and gynecology 8th edition. Tác giả Beckmann. Hợp tác xuất bản với ACOG. Nhà xuất bản Wolters Kluwer Health 2018.
    1. Trước đây, tiêu chuẩn đạm niệu > 5g / 24giờ được xem là triệu chứng nặng, do được cho là có liên quan đến kết cục xấu. Do các chứng cứ hiện hành không còn ủng hộ tương quan thuận giữa đạm niệu lượng nhiều và kết cục xấu, nên tiêu chuẩn này đã bị loại bỏ.

      Cũng trước đây, thai với tăng trưởng giới hạn trong tử cung (IUGR) được xem là triệu chứng nặng, do được cho là phản ánh trình trạng cấp máu của đơn vị nhau thai. Tuy nhiên, phân loại mới đánh giá cần xử lý IUGR theo tình trạng và mức độ của IUGR, nên không còn dùng tiêu chuẩn IUGR để đánh giá độ năng của tiền sản giật. Khi tiền sản giật có kèm IUGR, ta chỉ gọi là tiền sản giật có IUGR, mà không gọi là tiền sản giật nặng nữa.

    2. Khi nghĩ đến hội chứng HELLP cần chẩn đoán phân biệt với: gan nhiễm mỡ cấp trong thai kỳ (Acute Fatty Liver of Pregnancy), xuất huyết giảm tiểu cầu, hội chứng u-rê gây tán huyết (suy thận giai đoạn hậu sản)
  • 1.TS BS TRẦN NHẬT THĂNG – TIỀN SẢN GIẬT, MÔ HÌNH TIÊN ĐOÁN VÀ DỰ PHÒNG

  • Sinh bệnh học của các bệnh lý tăng huyết áp trong thai kỳ

    Sinh bệnh học của các bệnh lý tăng huyết áp trong thai kỳ

    Sinh bệnh học của các bệnh lý tăng huyết áp trong thai kỳ:

    Các đợt xâm nhập của nguyên bào nuôi

    Nguyễn Vũ Hà Phúc 1, Nguyễn Hữu Trung 2, Lê Hồng Cẩm 3

    © Bộ môn Phụ Sản, Khoa Y, Đại học Y Dược TP. Hồ Chí Minh.

    1. Giảng viên, Bộ môn Phụ Sản Đại học Y Dược TP. Hồ Chí Minh, e-mail: [email protected]
    2. Giảng viên, Bộ môn Phụ Sản Đại học Y Dược TP. Hồ Chí Minh, e-mail: [email protected]
    3. Phó giáo sư, Trưởng bộ môn, Bộ môn Phụ Sản Đại học Y Dược TP. Hồ Chí Minh, e-mail: [email protected]
    Mục tiêu bài giảng
    Sau khi học xong, sinh viên có khả năng:

    1. Trình bày được các yếu tố nguy cơ của bệnh lý tăng huyết áp trong thai kỳ
    2. Trình bày được cơ chế gây ra tiền sản giật
    3. Trình bày được quá trình xâm nhập của nguyên bào nuôi vào hệ thống động mạch xoắn xảy ra trong tiền sản giật 4. Mô tả được tổn thương bệnh học của các cơ quan trong tiền sản giật

    Bệnh lý tiền sản giật được đặc trưng bởi hiện tượng co thắt dữ dội của các tiểu động mạch, gây tăng huyết áp, thoát quản huyết tương và huyết cầu, cuối cùng dẫn đến rối loạn đa cơ quan.

    Cơ chế chính xác gây ra tiền sản giật còn chưa rõ.

    Giả thuyết hiện nay cho rằng tiền sản giật do nhiều nguyên nhân phối hợp.

    Người ta chỉ biết rằng hậu quả cuối cùng của bệnh lý tiền sản giật là co mạch dữ dội, tăng huyết áp, thoát dịch tại mao mạch và dẫn đến rối loạn đa cơ quan (não, gan, thận và hệ thống đông máu).

    Các cơ chế bệnh sinh có thể là:

    1. Làm tổ bánh nhau với sự xâm nhập bất thường của các nguyên bào nuôi vào động mạch xoắn
    2. Sự không tương hợp giữa mẹ, bố (bánh nhau) và mô thai, Cơ thể mẹ thích nghi kém với những thay đổi về tim mạch và đáp ứng viêm trong thai kỳ
    3. Các yếu tố về di truyền.
    4. Giả thuyết được chấp nhận nhiều nhất hiện nay là làm tổ bánh nhau với sự xâm nhập bất thường của các nguyên bào nuôi vào động mạch xoắn.

    Các đợt xâm nhập của nguyên bào nuôi không hoàn toàn dẫn đến tái cấu trúc không trọn vẹn của động mạch xoắn.

    Hệ quả là bánh nhau vẫn giữ như một hệ thống có trở kháng cao, với tưới máu không đầy đủ.

    Dường như là tiền sản giật là một hội chứng trong thai kỳ có nguồn gốc phát sinh từ bánh nhau, gây ra do sự xâm nhập các nguyên bào nuôi không hoàn toàn dẫn đến sự rối loạn chức năng tế bào nội mô lan tỏa ở cơ thể người mẹ.

    Trong sự phát triển bánh nhau bình thường, các nguyên bào nuôi trải qua quá trình giả tạo mạch (giả mạch máu) để có hình dạng giống như tế bào nội mô. Trong giai đoạn sớm của sự phát triển bánh nhau, các nguyên bào nuôi ngoài gai nhau xâm nhập vào hệ thống động mạch xoắn tử cung ở màng rụng và cơ tử cung. Các nguyên bào nuôi này thay thế cho lớp nội mô mạch máu của động mạch xoắn, làm cho các động mạch xoắn đang có khẩu kính nhỏ, đề kháng thành mạch cao chuyển dạng thành khẩu kính lớn, đề kháng thành mạch giảm giúp cho sự tưới máu bánh nhau được đầy đủ, phù hợp để dinh dưỡng thai. Điều này tạo ra cho bánh nhau trở thành một hệ thống có trở kháng thấp, trong một thai kỳ bình thường. Trong tiền sản giật, sự chuyển dạng này xảy ra không hoàn toàn, các đợt xâm nhập của nguyên bào nuôi vào động mạch xoắn bị giới hạn, chỉ xảy ra ở phần nông là lớp màng rụng. Đoạn trong lớp cơ tử cung vẫn hẹp. Hệ quả là trong tiền sản giật, hệ thống vẫn có trở kháng cao, với tưới máu không đầy đủ.

    Cơ chế chính xác gây ra sự xâm nhập bất thường của nguyên bào nuôi và sự tái cấu trúc không trọn vẹn của động mạch xoắn xảy ra trong tiền sản giật còn chưa rõ.

    Hình 1: Xâm nhập bất thường của nguyên bào nuôi vào hệ thống động mạch xoắn dẫn đến sự tái cấu trúc không trọn vẹn của động mạch xoắn. Trong sự phát triển bánh nhau bình thường, các nguyên bào nuôi trải qua quá trình giả tạo mạch (giả mạch máu) để có hình dạng giống như tế bào nội mô.

    Trong giai đoạn sớm của sự phát triển bánh nhau, các nguyên bào nuôi ngoài gai nhau xâm nhập vào hệ thống động mạch xoắn tử cung ở màng rụng và cơ tử cung. Các nguyên bào nuôi này thay thế cho lớp nội mô mạch máu của động mạch xoắn, làm cho các động mạch xoắn đang có khẩu kính nhỏ, đề kháng thành mạch cao chuyển dạng thành khẩu kính lớn, đề kháng thành mạch giảm giúp cho sự tưới máu bánh nhau được đầy đủ, phù hợp để dinh dưỡng thai.

    Trong tiền sản giật, sự chuyển dạng này xảy ra không hoàn toàn, các đợt xâm nhập của nguyên bào nuôi vào động mạch xoắn bị giới hạn, chỉ xảy ra ở phần nông là lớp màng rụng. Đoạn trong lớp cơ tử cung vẫn hẹp.

    Nguồn: dundeemedstudentnotes.files.wordpress.com

    Bánh nhau, không phải thai, là điều kiện cần trong sự phát triển tiền sản giật.

    Có thể lấy dẫn chứng như trong trường hợp của thai trứng, khi đó dù không có mô thai hiện diện, vẫn có thể phát triển thành tiền sản giật. Hoặc một dẫn chứng khác là các trường hợp sản giật ở giai đoạn hậu sản, có thể có liên quan đến các mảnh nhau còn sót, do đó tình trạng bệnh nhân sẽ được cải thiện nhanh chóng sau khi nạo lòng tử cung lấy đi các mảnh này.

    Có bằng chứng trên mô học cho thấy tiền sản giật nặng có liên quan đến sự giảm tưới máu và thiếu máu nuôi bánh nhau.

    Bệnh sinh của tiền sản giật xảy ra theo hai giai đoạn:

    1. Giai đoạn sớm với giảm tưới máu bánh nhau (giai đoạn nhau), không triệu chứng lâm sàng. 2. Giai đoạn muộn liên quan đến hệ quả của hiện tượng giảm tưới máu nhau (giai đoạn ở mẹ), với biểu hiện lâm sàng và các biến chứng đa cơ quan.

    Giả thuyết 2 giai đoạn trong nguyên nhân bệnh sinh của tiền sản giật, đặc biệt là tiền sản giật khởi phát sớm.

    Giai đoạn 1 hay giai đoạn nhau (xảy ra trước tuần thứ 20 thai kỳ): liên quan đến sự giảm tưới máu bánh nhau. Ở giai đoạn này chưa có biểu hiện hay triệu chứng trên lâm sàng.

    Giai đoạn 2 hay giai đoạn ở mẹ: liên quan đến hậu quả của sự giảm tưới máu bánh nhau và gây các triệu chứng trên lâm sàng của tiền sản giật. Các biểu hiện ở giai đoạn 2 thay đổi phụ thuộc vào mẹ có hay không có tình trạng viêm và hoạt hóa tế bào nội mô trước đó như: bệnh lý tim mạch, thận, đái tháo đường, béo phì, miễn dịch và di truyền.

    Sơ đồ 1: Giả thuyết về cơ chế bệnh sinh của tiền sản giật

    1. COMT: catechol-O-methyltransferase
    2. NK: natural killer
    3. AT1-AA: angiotensin type II receptor
    4. sFlt-1: soluble fms-like tyrosine kinase 1
    5. sEng: soluble endoglin
    6. PlGF: placental growth factor
    7. VEGF: vascular endothelial growth factor
    8. HELLP: hemolysis, elevated liver enzymes, low platelet count
    9. Glomerular endotheliosis: tổn thương giống xơ vữa cầu thận
    Bánh nhau đóng vai trò then chốt trong sự phát triển và thoái lui của tiền sản giật. Mất cân bằng giữa yếu tố tân tạo và kháng tạo mạch giữ vai trò then chốt trong cơ chế bệnh sinh của tiền sản giật.

    Ở tiền sản giật có sự suy giảm xâm nhập của nguyên bào nuôi vào hệ thống động mạch xoắn làm cho bánh nhau bị thiếu máu cục bộ.

    Để đáp ứng với tình trạng thiếu oxy ở bánh nhau, bánh nhau sản sinh ra nhiều yếu tố đi vào dòng máu mẹ gây ra tình trạng rối loạn chức năng của tế bào nội mô và các biểu hiện lâm sàng khác của bệnh, trong đó được quan tâm nhiều nhất là các yếu tố kháng tạo mạch: sFlt-1(soluble fms-like tyrosine kinase 1) và sEng (soluble endoglin).

    sFlt-1 đối vận với PlGF (Placental Growth Factor). PlGF thuộc dòng họ VEGF (Vascular Endothelial Growth Factor), là một yếu tố tăng trưởng nội mô mạch máu, là một protein tiền sinh mạch có liên quan trong việc điều hòa sự phát triển hệ thống mạch máu của bánh nhau và chức năng nội mô của mẹ trong suốt thai kỳ.

    sFlt-1 sẽ gắn lên PlGF làm ngăn cản sự gắn kết bình thường của protein tăng sinh mạch máu này, do đó trong tiền sản giật có sự giảm PlGF, và tăng sFlt-1.

    Khảo sát sFlt-1 và PlGF có thể giúp tiên đoán tiền sản giật.

    Các nghiên cứu cho thấy khoảng 5 tuần trước khi tiền sản giật xuất hiện trên lâm sàng, tỷ số sFlt-1/PlGF tăng cao ở nhóm sau này bị tiền sản giật.

    Điều này làm tiền đề cho việc sử dụng các xét nghiệm này cho việc tiên đoán tiền sản giật.

    Nguồn gốc xuất hiện tiền sản giật bắt đầu từ bánh nhau nhưng cơ quan đích là các tế bào nội mô của mẹ.

    Dòng thác chuỗi sự kiện gây ra hội chứng tiền sản giật đặc trưng bởi sự tổn thương nội mô dẫn đến sự co mạch, thoát huyết tương, thiếu máu và hình thành các mảng huyết khối.

    Tổn thương tế bào nội mô của mẹ xảy ra ở đa cơ quan, nhất là gan, não, thận. Tổn thương bệnh học của các cơ quan trong tiền sản giật là sự giảm tưới máu lan rộng.

    Co mạch làm tăng huyết áp.

    Tổn thương nội mô gây thoát quản các thành phần huyết tương và huyết cầu, gây hệ quả là cô đặc máu và tiêu thụ tiểu cầu ngoài lòng mạch.

    Tăng huyết áp là triệu chứng chính của tiền sản giật, do hậu quả của sự co mạch.

    Giảm thể tích tuần hoàn làm tăng hematocrit do mất đạm gây giảm áp lực keo lòng mạch, nặng có thể gây sốc giảm thể tích làm hoại tử nhu mô tim.

    Gan: nhồi máu, hoại tử và xuất huyết trong nhu mô, gây rối loạn chức năng tế bào gan và làm tiến triển thêm các rối loạn đông máu.

    Tổn thương tế bào nội mô của thận làm tổn hại nghiêm trong chức năng lọc vi cầu thận.

    Tổn thương cấu trúc vi cầu thận gây tiểu đạm.

    Tiểu đạm là một triệu chứng đặc trưng của hội chứng tiền sản giật.

    Tổn thương tế bào nội mô có thể thấy rõ nhất ở thận, phản ánh đặc tính thay đổi bệnh học đặc trưng của tiền sản giật.

    Thay đổi xảy ra ở siêu cấu trúc của cầu thận gây ra những tổn thương giống xơ vữa tại cầu thận, các tế bào nội mô bị phù lan tỏa và hình thành các không bào bên trong, làm mất đi khoang mao mạch, đồng thời có sự lắng đọng fibrin dưới tế bào nội mô làm giảm diện tích lọc của cầu thận.

    Trong tiền sản giật độ lọc cầu thận giảm tới 40% so với bình thường, hệ quả là gây tăng creatinin máu, tăng acid uric máu và xuất hiện đạm niệu.

    Các triệu chứng thần kinh, mà nặng nhất là sản giật là hệ quả của tình trạng tổn thương tế bào nội mô ở não.

    Tổn thương nội mô ở não gây phù não và xuất huyết trong nhu mô não.

    Phù não trong tiền sản giật không liên quan đến mức độ nặng của tăng huyết áp, tình trạng phù này xảy ra thứ phát do rối loạn nội mô hơn là do tăng huyết áp.

    Có thể lý giải được sự phát sinh của tiền sản giật trong một số trường hợp nguy cơ cao.

    TÀI LIỆU ĐỌC THÊM

    Từ hiểu biết về bệnh sinh, có thể lý giải được sự phát sinh của tiền sản giật trong một số trường hợp nguy cơ cao.

    • Tiếp xúc lần đầu với gai nhau.
    • Tiếp xúc với quá nhiều gai nhau: thai trứng, đa thai.
    • Trên bệnh nền có viêm hoặc hoạt hóa tế bào nội mô.
    • Tiền căn gia đình bị tăng huyết áp trong thai kỳ.
    Bảng 1: Các yếu tố nguy cơ của tình trạng tiền sản giật đã được nhận diện
    • Con so
    • Béo phì
    • Đa thai
    • Mẹ lớn tuổi
    • Tiền căn từng bị tiền sản giật trong lần mang thai trước  Tăng huyết áp mạn, đái tháo đường, bệnh thận, Lupus
    • Tiền sử gia đình có mẹ hoặc chị em gái bị tiền sản giật

    1. Obstetrics and gynecology 8th edition. Tác giả Beckmann. Hợp tác xuất bản với ACOG. Nhà xuất bản Wolters Kluwer Health 2018.

  • CÁC CHỈ SỐ SIÊU ÂM TIM CƠ BẢN – BS Hoàng Văn Trung

    CÁC CHỈ SỐ SIÊU ÂM TIM CƠ BẢN – BS Hoàng Văn Trung

    CHỈ SỐ SIÊU ÂM TIM CƠ BẢN

    Hoàng Văn Trung

    A – NHĨ TRÁI

    1. Đường kính nhĩ trái – Left atrial diameter (mm)

    Bình thường 30-40; giãn nhẹ 41-46; giãn vừa 47-52; giãn nhiều >52

    1. Đường kính nhĩ trái theo diện tích da – Left atrial diameter/body surface (mm/m2)

    Bình thường 15-23; giãn nhẹ 24-26; giãn vừa 27-29; giãn nhiều >29

    1. Thể tích nhĩ trái – Left atrial area (cm2)

    Bình thường <21; giãn nhẹ 21-30; giãn vừa 31-40; giãn nhiều >40

    1. Thể tích nhĩ trái theo diện tích da – Left atrial volume/body surface (ml/m3)

    Bình thường ≤34

    B – NHĨ PHẢI

    1. Đường kính trục ngắn nhĩ phải – Minor right atrial diameter (mm)

    Bình thường 29-45; giãn nhẹ 46-49; giãn vừa 50-54 ; giãn nhiều >54

    1. Đường kính trúc ngắn nhĩ phải / diện tích da – Minor right atrial diameter/body surface (mm/m2) Bình thường: 19 ± 3 (1 SD)

    3. Đường kính trục dài nhĩ phải – Major right atrial diameter/body surface (mm/m²)

    Bình thường: Nam 24 ± 3 (1 SD)

    Bình thường: Nữ 25 ± 3 (1 SD)

    4. Thể tích nhĩ phải / diện tích da – Right atrial volume/body surface (ml/m²)

    Bình thường: Nam 25 ± 7 (1 SD)

    Bình thường: Nữ 21 ± 6 (1 SD)

    C – THẤT TRÁI (LEFT VENTRICLE)

    1. Các chỉ số bình thường

    IVSd: 6-10mm IVSs: 6-13mm

    LVEDd: 40-60mm LVEDs: 20-40mm

    LVPWd: 6-11mm LVPWs: 6-13mm

    EDV: nam 65-155ml, nữ 55-110ml ESV: nam 20-60ml, nữ 20-50ml

    EF: ≥55% FS: 28-42%

    2. Phân suất tống máu – Ejection fraction (%)

    Phân loại cổ điển cho cả hai giới: Bình thường ≥55; Bất thường nhẹ 45-54, vừa 30-44, nặng <30

    Phân loại mới cho nam: Bình thường 52-72; Bất thường nhẹ 41-51, vừa 30-40, nặng <30 Phân loại mới cho nam: Bình thường 54-74; Bất thường nhẹ 41-53, vừa 30-40, nặng <30

    3. Các thành tim và khối cơ Thành sau và vách – Thickness of posterior and septal wall (mm): Bình thường 6-9; Bất thường nhẹ 10-12, vừa 13-15, nặng >15

    Khối thất trái / diện tích da – Left ventricular mass / body surface (g/m²) – linear method:

    Bình thường 43-95; Bất thường nhẹ 96-108, vừa 109-121, nặng >121

    D – THẤT PHẢI (RIGHT VENTRICLE)

    • RVD1 (Basal RV diameter): 25-41mm
    • RVD2 (Midventricular RV diameter): 19-35mm
    • RVD3 (Base apex distance): 59-83mm
    • RVOT1 (Proximal RVOT): 21-35mm
    • RVOT2 (Distal RVOT): 17-27mm

     

     

     

    • Chiều dày thành (RV wall thickness): ≤5mm
    • TAPSE: >17mm
    • Vận tốc đỉnh tâm thu Doppler mô của vòng van 3 lá (Peak systolic tissue doppler velocity of the tricuspid

    annulus (S wave) PW-Doppler)

     

    E – ĐỘNG MẠCH CHỦ VÀ VAN ĐỘNG MẠCH CHỦ (AOROTA AND AORTIC VALVE)

    1. Các chỉ số bình thường

    • Biên độ mở van ở đầu kỳ tâm thu: 15-25mm
    • Vmax: <2.5m/s Gp: <35mmHg
    • PHT: >500ms
    • Diện tích lỗ van: 3-4cm2
    • Đường kính động mạch chủ (20-36mm):

    AO / Vị trí Vòng van (Annulus) Xoang Valsalva (Sinus Valsalva) Đoạn nối (Sinutubular junction) Đoạn lên (Aorta ascendens) Đoạn cung

    (Aortic arch)

    Bình thường 20-31mm 29-45mm 22-36mm 22-36mm 22-36mm
    Theo diện tích da 12-14mm/m2 15-20mm/m2 13-17mm/m2 13-17mm/m2  

     

    1. Hở van chủ (Aortic valve regurgitation)

    2.1 Đánh giá theo mức độ lan truyền dòng hở van trong thất trái:  Độ 1: Dòng chảy chỉ giới hạn ngay dưới van chủ

      • Độ 2: Dòng chảy lan tới không quá ½ lá trước van 2 lá
      • Độ 3: Dòng chảy lan tới cơ nhú
      • Độ 4: Dòng chảy lan tới mỏm tim

     

    2.2 Đánh giá theo các tham số khác

    Vena contracta (cm) PHT (thời gian nửa áp lực) CW-Doppler Dòng chảy tâm trương đảo ngược động mạch chủ xuống
    Nhẹ: <0.3

    Vừa: 0.3-0.6

    Nặng: >0.6

    Nhẹ: >500

    Vừa: 200-500

    Nặng: <200

    Nhẹ: nếu hiện diện, tâm trương sớm

    Vừa: tâm trương sớm

    Nặng: toàn tâm thu

     

    2.3 Định lượng dòng hở (Jet-quantification)

    Jet-width / LVOT-width: nhẹ <0.25; vừa 0.25-0.64; nặng >0.64 Jet-area / LVOT-area: nhẹ <0.05; vừa 0.05-0.59; nặng >0.59

     

    2.4 Các tham số định tính (Quanlitative parameters)

    Chỉ số /Mức độ hở Mức độ nhẹ Mức độ vừa Mức độ nặng
    Diện tích dòng hở

    (Jet area)

    Nhỏ Biến đổi Lớn nếu trung tâm, biến đổi nếu lệch tâm
    Khuyết diện tiếp xúc van

    (Coaptation defect)

    Nhẹ Vừa Nhiều
    Dòng hở trên CW

    (CW-profile aortic regurgitation)

    Nhạt Biến đổi Đậm
    Nhĩ trái (Size left atrium) Bình thường Bình thường hoặc giãn Giãn
    Thất trái (Size left ventricle) Bình thường Bình thường hoặc giãn Giãn

     

    2.5 Thêm vào thông số PISA (Additional PISA-parameters)

    Chỉ số / Mức độ hở Mức độ nhẹ Mức độ vừa Mức độ nặng
    EROA (cm2) <0.10 0.10-0.29 >0.29
    Thể tích hở

    (Regurgitation volume)

    = EROA x TVI (ml / nhát bóp)

    <30 30-59 >59
    Phân suất hở %

    (Regurgitation fraction)

    <30 30-49 >49

     

    1. Hẹp van chủ (Aortic valve stenosis)
      1. Diện tích van – Valve area (cm2)

    Nhẹ >1.5; Vừa 1.0-1.5; Nặng <1.0

      1. Diện tích van / Diện tích da – Normalized valve area (cm2/m2)

    Nhẹ >0.85; Vừa 0.60-0.85; Nặng <0.60

    3.3 Đo lường các thông số (mmHg)

    Chênh áp trung bình

    (mmHg)

    Vận tốc tối đa

    (m/s)

    Chênh áp tối đa

    (mmHg)

    Tỷ số vận tốc (đường ra thất trái/van chủ)
    Nhẹ: <20

    Vừa: 20-40

    Nặng: >40

    Nhẹ: 2.6-2.9

    Vừa: 3.0-4.0

    Nặng: >4.0

    Nhẹ: <35

    Vừa: 35-65

    Nặng: >65

    Nhẹ: >0.5

    Vừa: 0.25-0.5

    Nặng: <0.25

     

    1. – ĐỘNG MẠCH PHỔI VÀ VAN ĐMP (PULMONARY AND PULMONARY VALVE)
      • Đường kính bình thường ĐMP: 15-20mm
      • Bình thường: Vmax 60-90cm/s
        • Áp lực động mạch phổi tâm thu = 4 V2hở 3 lá + Áp lực nhĩ phải.

    Vhở 3 lá là vận tốc tối đa của dòng hở 3 lá.

    Áp lực nhĩ phải: bình thường là 5 mmHg, khi suy tim nhẹ là 10 mmHg, khi suy tim nặng là 15 mmHg.

        • Áp lực động mạch phổi tâm trương = 4V2cuối tâm trương + 10.

    V2 cuối tâm trương là vận tốc cuối tâm trương của phổ dòng hở van động mạch phổi. Bình thường, áp lực động mạch phổi tâm trương là 12-14,5mmHg.

        • Áp lực động mạch phổi trung bình = 4V2đầu tâm trương + 10.

    V2 đầu tâm trương là vận tốc đầu tâm trương của phổ dòng hở van động mạch phổi. Bình thường áp lực động mạch phổi trung bình là 15-23mmHg.

      • Hẹp van ĐMP (Pulmonary valve stenosis):
          • Hẹp nhẹ: Vmax <3m/s Gpmax <36mmHg
          • Hẹp vừa: Vmax 3-4m/s Gpmax 36-64mmHg
          • Hẹp nặng: Vmax >4m/s Gpmax >64mmHg
      • Hở van ĐMP (Pulmonary valve regurgitation):
          • Hở nhẹ (Kích thước dòng hở với Nyquist 50-60cm/s: Gốc hẹp, thường <10mm)
          • Hở vừa (Kích thước dòng hở với Nyquist 50-60cm/s: trung gian)
          • Hở nặng (Kích thước dòng hở với Nyquist 50-60cm/s: Lớn gốc rộng, có thể ngắn)

     

     

     

    1. – VAN 2 LÁ (MITRAL VALVE)  Chỉ số bình thường:

    Ve: 60-120cm/s Va: 50-80cm/s Gp: <5mmHg E/A>1

    Diện tích lỗ van 2 lá: 4-6cm2

    EF slope: 75-125mm/s (Dốc tâm trương) DE: 17-23mm (Biên độ di động của lá trước)  Hẹp van 2 lá (Mitral valve stenosis):

    Mức độ hẹp Nhẹ Vừa Nặng
    Diện tích lỗ van (cm2) >1,5 1-1,5 <1
    PHT (ms) <146 146-220 >220
    Chênh áp trung bình (mmHg) <5 5-10 >10
    Áp lực động mạch phổi (mmHg) <30 30-50 >50
      • Hở van 2 lá (Mitral valve regurgitation)
        • Bình thường: Không có dòng phụt
        • Nhẹ: Dòng phụt trung tâm (thường <4cm2, hay <20% diện tích nhĩ trái)
        • Vừa: Dòng phụt trung bình (4-10cm2, hay 20-40% diện tích nhĩ trái)
        • Nặng: Dòng phụt lớn (thường >10cm2, hay >40% diện tích nhĩ trái, dòng xoáy)

     

    1. – VAN 3 LÁ (TRICUSPID VALVE)
      • Chỉ số bình thường: Vmax <0,5-1m/s Gp <2mmHg
      • Hẹp van 3 lá (Tricuspid valve stenosis): Dấu chứng hẹp đáng kể về huyết động: chênh áp trung bình ≥5mmHg; tích phân vận tốc thời gian dòng chảy ba lá >60cm; T1/2 ≥190ms; phương trình liên tục ≤1cm2; nhĩ phải giãn ≥ mức độ vừa; giãn tĩnh mạch chủ dưới.
      • Hở van 3 lá (Tricuspid valve regurgitation):
        • Hở nhẹ: Diện tích dòng hở trung tâm <5cm2, PISA với Nyquist 28cm/s: <0,5cm
        • Hở vừa: Diện tích dòng hở trung tâm 5-10cm2, PISA với Nyquist 28cm/s: 0,6-0,9cm
        • Hở nặng: Diện tích dòng hở trung tâm >10cm2, PISA với Nyquist 28cm/s: >0,9cm

     

  • Hướng dẫn cập nhật từ Hiệp hội Đái tháo đường Anh Quốc  (JBDS) cho chẩn đoán và điều trị Toan ceton đái tháo đường (DKA)

    Hướng dẫn cập nhật từ Hiệp hội Đái tháo đường Anh Quốc (JBDS) cho chẩn đoán và điều trị Toan ceton đái tháo đường (DKA)

    Toan ceton đái tháo đường

    Hướng dẫn cập nhật từ Hiệp hội Đái tháo đường Anh Quốc

    Tóm tắt

    Bài báo này tóm tắt các hướng dẫn của Hiệp hội Đái tháo đường Anh cho Chăm sóc Nội trú về quản lý nhiễm toan ceton; có tại https://abcd.care/resource/management-diabetic-ketoacidosisdka-adults. Tài liệu nêu rõ rằng khi một người từ 16-18 tuổi được đội ngũ nhi khoa chăm sóc thì nên sử dụng hướng dẫn dành cho trẻ em và nếu họ được chăm sóc bởi đội người lớn thì nên sử dụng hướng dẫn này. Hướng dẫn có tính đến bằng chứng mới về việc sử dụng phiên bản trước của tài liệu này, đặc biệt là tỷ lệ hạ đường huyết và hạ kali máu cao, và khuyến cáo rằng khi nồng độ glucose giảm xuống dưới 14 mmol / L, làm giảm tốc độ truyền insulin từ 0,1 xuống 0,05 đơn vị / kg / h nên được xem xét. Hơn nữa, một phần mới đã được thêm vào để giải quyết việc sử dụng SGLT-2 có liên quan đến việc tăng nguy cơ nhiễm ceton máu đẳng đường huyết. Việc quản lý tình trạng nhiễm toan ceton ở những người bị suy thận giai đoạn cuối hoặc đang chạy thận nhân tạo cũng được đề cập.

    Có gì mới?

    • Nhiễm toan ceton vẫn là một tình trạng có thể đe dọa tính mạng. Phiên bản trước của hướng

    dẫn này đã được sử dụng rộng rãi trên khắp Vương quốc Anh và các nơi khác. Tuy nhiên,

    bằng chứng về sự phổ biến của hạ đường huyết và hạ kali máu cho thấy rằng cần phải thay

    đổi.
    Hướng dẫn này nêu rõ rằng khi một bệnh nhân từ 16–18 tuổi được đội ngũ nhi khoa chăm sóc thì nên sử dụng hướng dẫn dành cho trẻ em và nếu họ được chăm sóc bởi đội người lớn thì nên sử dụng hướng dẫn này.
    Hướng dẫn cập nhật này hiện khuyến nghị xem xét giảm tốc độ truyền insulin từ 0,1 xuống 0,05 đơn vị / kg / giờ khi đường huyết giảm xuống dưới 14 mmol / L.
    Các phần mới đã được thêm vào để giải quyết vấn đề nhiễm toan ceton trong máu khi sử dụng thuốc ức chế SGLT-2, đái tháo đường týp 2 dễ bị nhiễm ceton và nhiễm toan ceton ở những người bị suy thận giai đoạn cuối hoặc đang lọc máu.

    1. GIỚI THIỆU

    Kể từ khi được xuất bản lần đầu tiên vào năm 2010, hướng dẫn này và bản cập nhật được xuất bản vào năm 2013 đã được áp dụng hoặc điều chỉnh rộng rãi trên toàn Vương quốc Anh và các khu vực khác trên thế giới. Nó thường được coi là tiêu chuẩn chăm sóc. Cùng với hướng dẫn của Hiệp hội Đái tháo đường Hoa Kỳ (ADA),1 đây vẫn là một trong những hướng dẫn được trích dẫn thường xuyên nhất về quản lý nhiễm toan ceton. Đến năm 2018, phiên bản gốc đã được truy cập, đọc hoặc tải xuống hơn 100.000 lần từ các trang web của ABCD và Diabetes UK. Ngoài ra, phiên bản ngắn gọn được xuất bản vẫn nằm trong top 10 bài báo được tải xuống nhiều nhất từ trang web Y học Đái tháo đường trong nhiều năm. Tài liệu này đã giới thiệu một sự thay đổi từ quản lý rối loạn chuyển hóa dựa trên glucose sang dựa trên ceton. Mặc dù gây tranh cãi vào thời điểm đó, nhưng điều này đã dẫn đến việc giải quyết nhiễm toan ceton nhanh hơn và thời gian nằm viện ngắn hơn trong các cuộc kiểm tra lặp lại.

    Khi nó được viết lần đầu tiên, trong khi hầu hết các lời khuyên đều dựa trên bằng chứng, một số khuyến nghị dựa trên sự đồng thuận. Họ dựa trên kinh nghiệm chung của nhóm viết. Kể từ đó, đã có thêm nhiều bằng chứng cho thấy không chỉ nhiều khuyến nghị trong số đó là phù hợp mà còn một số khuyến nghị có thể cần được sửa đổi.

    Ấn bản mới này nhằm cập nhật hướng dẫn sử dụng bằng chứng đã có sẵn. Ở những nơi khác, các thay đổi đã được đề xuất dựa trên sự đồng thuận của các chuyên gia. Những điều này được đánh dấu trong phần các khu vực gây tranh cãi.

    Các phiên bản tóm tắt của hướng dẫn được thể hiện trong Hình 1 và cả Hình 2 trong các tài liệu bổ sung.

    HÌNH 1. Phác đồ quản lý nhiễm toan ceton

    HÌNH 2. Một ví dụ về một con đường đơn giản hóa để kiểm soát bệnh nhiễm toan ceton – được

    tạo bởi Kind Permission of Punith Kempegowda

    1.1 Chẩn đoán nhiễm toan ceton

    Tất cả những điều này phải hiện diện để chẩn đoán:

    ‘D’ – nồng độ đường huyết (BG) > 11,0 mmol / L hoặc được biết là mắc bệnh đái tháo đường.

    ‘K’ – nồng độ ceton trong mao mạch hoặc trong máu > 3.0 mmol / L hoặc ceton niệu đáng kể (≥ 2+ trên que nước tiểu tiêu chuẩn).

    ‘A’ – nồng độ bicarbonate < 15,0 mmol / L và / hoặc pH tĩnh mạch < 7,3.

    Định nghĩa ADA hơi khác và nó cũng sử dụng khoảng trống anion như một phần của tiêu chuẩn chẩn đoán để đánh giá mức độ nghiêm trọng.1 Phương trình phổ biến nhất để tính khoảng trống anion là ([Na + ] + [K + ]) – ([Cl ] + [HCO 3 ]). Đã có một cuộc gọi để cập nhật hướng dẫn ADA. 2

    1.2 Cơ sở lý luận cho thực hành hiện nay

    1.2.1 Ceton và nhiễm toan

    Với sự hiểu biết sâu sắc hơn về sinh lý và hóa học axit-bazơ, hiện nay người ta đã khẳng định rõ rằng đo khí máu tĩnh mạch cùng với đo ceton mao mạch và đo glucose là chìa khóa để hướng dẫn xử trí nhiễm toan ceton.

    Dữ liệu từ một cuộc khảo sát quốc gia được thực hiện vào năm 2014 tại Vương quốc Anh cho thấy rằng 76% các cơ sở có khả năng đo nồng độ ceton bằng cách sử dụng xét nghiệm tại điểm chăm sóc. 3 Báo cáo năm 2020 của NaDIA 2019 (National Inpatient Diabetes Audit) cho thấy 71,3% hoặc bệnh viện sử dụng máy đo đường huyết từ xa (remote/networked glucose meters). 4 Diabetes UK cũng khuyến nghị sử dụng máy theo dõi glucose và ceton từ xa trong báo cáo năm 2018 của họ có tựa đề ‘Làm cho các bệnh viện an toàn cho người bị bệnh đái tháo đường’. 5

    1.2.2 Nhiễm toan ceton đẳng đường huyết (euglycaemic ketoacidosis)

    Đây là sự phát triển của nhiễm toan chuyển hóa tăng khoảng trống anion, ceton huyết (> 3.0 mmol / L) hoặc ceton niệu đáng kể (từ 2+ trở lên trên que nước tiểu tiêu chuẩn) ở những người được biết là mắc bệnh đái tháo đường nhưng glucose vẫn bình thường hoặc không tăng đặc biệt. Cải thiện giáo dục cho những người bị bệnh đái tháo đường với tăng theo dõi đường huyết và ceton mao mạch tại nhà đã dẫn đến điều trị một phần nhiễm toan ceton trước khi nhập viện với mức BG thấp hơn khi vào viện. Tình trạng này được điều trị giống hệt như nhiễm toan ceton tăng đường huyết.

    1. Bắt đầu ngay lập tức glucose 10% ở 125 ml / h vì glucose <14 mmol / L
    2. Bắt đầu với tốc độ insulin 0,1 đơn vị / kg / h
    3. Nếu glucose giảm mặc dù dùng glucose 10%, hãy giảm xuống 0,05 đơn vị / kg / h để tránh hạ đường huyết

    Với việc sử dụng rộng rãi nhóm thuốc ức chế SGLT (sodium-glucose cotransporter) (ví dụ: dapagliflozin, canagliflozin, empagliflozin, ertugliflozin, sotagliflozin) ở những người mắc bệnh đái tháo đường típ 2 và ngày càng tăng ở những người mắc bệnh típ 1, đã làm nổi bật tầm quan trọng của sử dụng pH và ceton (thay vì chăm sóc ‘lấy glucose làm trung tâm’ cũ hơn) để hướng dẫn chẩn đoán và xử trí. Điều này là do nguy cơ phát triển nhiễm toan ceton đẳng đường huyết với các tác nhân này. 6 Tỷ lệ nhiễm toan ceton đẳng đường huyết trước khi sử dụng rộng rãi các chất ức chế SGLT cho thấy rằng nó không phải là hiếm. 7 Tuy nhiên, tỷ lệ nhiễm toan ceton liên quan đến SGLT trong ‘thế giới thực’, tức là bên ngoài dân số thử nghiệm vẫn chưa được biết đến, nhưng có thể cao hơn dữ liệu thử nghiệm đề xuất. Điều này là do sự lựa chọn cẩn thận, giáo dục và theo dõi những người tham gia thử nghiệm cũng như các định nghĩa khác nhau về nhiễm toan ceton được sử dụng trong các thử nghiệm. 8 , 9

    Nếu tình trạng nhiễm toan ceton xảy ra khi sử dụng thuốc ức chế SGLT, nên ngừng sử dụng chúng. Các cơ quan quản lý cần được biết về phản ứng có hại của thuốc. Ở Vương quốc Anh, điều này là thông qua hệ thống “Yellow card”. Liệu có nên bắt đầu lại thuốc khi bệnh nhân đã hồi phục hay không cần được thảo luận với đội ngũ điều trị đái tháo đường.

    1.2.3 Bệnh đái tháo đường típ 2 dễ nhiễm ceton

    Nhiễm toan ceton không chỉ xảy ra ở những người mắc đái tháo đường típ, những người mắc đái tháo đường típ 2 cũng có thể phát triển nhiễm toan ceton — còn gọi là ‘ đái tháo đường típ 2 dễ bị nhiễm ceton’. 10 Điều này thường xảy ra nhất ở những người gốc Phi-Caribê hoặc gốc Tây Ban Nha. Việc điều trị tình trạng này cũng giống như đối với những người bị nhiễm toan ceton, nhưng họ thường giảm insulin nhanh chóng sau khi tình trạng nhiễm toan ceton và tình trạng thúc đẩy tiềm ẩn được giải quyết.

    1.2.4 Chẩn đoán phân biệt

    Điều quan trọng là phải loại trừ các nguyên nhân khác của nhiễm toan ceton, chẳng hạn như nhiễm toan ceton do rượu và nhiễm ceton do đói (starvation ketosis).

    Trong nhiễm toan ceton do rượu, nồng độ glucose bình thường là điểm khác biệt cơ bản với nhiễm toan ceton – tuy nhiên, cần khai thác bệnh sử cẩn thận để phân biệt với nhiễm toan ceton đẳng đường huyết. Nhiễm toan ceton mà không kèm tăng glucose ở một người nghiện rượu hầu như được chẩn đoán là nhiễm toan ceton do rượu. 11 Nếu nghi ngờ nhiễm toan ceton do rượu, thì nên đo β-hydroxybutyrat mao mạch chứ không phải đo ceton trong nước tiểu vì quá trình sản xuất acetoacetate có thể bị kìm hãm trong nhiễm toan ceton do rượu. Ngoài ra, acetoacetate được đo bằng que thăm nước tiểu.

    Nhiễm ceton do đói xảy ra do thiếu lượng carbohydrate và thường phát triển trong vài ngày. Việc hấp thụ ít carbohydrate sẽ dẫn đến tiết insulin thấp, tiếp theo là phân giải lipid và nhiễm ceton. Nồng độ ceton có thể tăng lên trên 6 mmol / L. 12 Tuy nhiên, do tình trạng này phát sinh trong một thời gian dài, thận sẽ bù trừ toan có nghĩa là (miễn là các chất dinh dưỡng khác được ăn vào) rối loạn axit-bazơ và điện giải thường ở mức tối thiểu. 13

    1.2.5 Kiểm tra tại điểm chăm sóc – point of care testing – POCT (‘theo dõi tại giường’)

    Các hướng dẫn này khuyến nghị rằng việc quản lý dựa trên xét nghiệm POCT của những người nhập viện vì nhiễm toan ceton. BG thường được kiểm tra bằng cách sử dụng POCT, nhưng máy đo ceton cầm tay hiện nay cũng cho phép kiểm tra 3-beta-hydroxybutyrate, ceton máu qua POCT. Đo ceton máu đại diện cho phương pháp tốt nhất trong việc theo dõi đáp ứng với điều trị. 14 Đã có một số lo ngại về độ chính xác của chúng, 15 nhiên, cho đến nay, không có tác hại nào được báo cáo từ việc sử dụng chúng và dữ liệu từ các máy đo này chỉ là một trong những phép đo giúp định hướng liệu pháp điều trị và chẩn đoán sự khỏi bệnh.

    Việc tiếp cận với khí máu và điện giải hiện nay tương đối dễ dàng và có sẵn trong vòng vài phút sau khi lấy máu. Khí máu tĩnh mạch có thể được sử dụng một cách an toàn. 16 – 18 Do đó, glucose, ceton và chất điện giải, bao gồm bicarbonate và pH tĩnh mạch, nên được đánh giá tại hoặc gần giường bệnh bằng cách sử dụng xét nghiệm POCT.

    Dữ liệu cung cấp các khuyến nghị này nêu ra các vấn đề quan trọng 3 :

    • Nhân viên phải được đào tạo về cách sử dụng máy đo BG và ketone POCT phù hợp với chính sách xét nghiệm tại địa phương và chứng minh năng lực liên tục trong việc sử dụng chúng.
    • Máy đo phải được đảm bảo chất lượng nghiêm ngặt
    • Phép đo trong phòng thí nghiệm sẽ được yêu cầu trong một số trường hợp nhất định, chẳng hạn như khi máy đo BG hoặc ceton ‘nằm ngoài giới hạn’
    • Nhân viên cần được biết về các nhiễu ảnh hưởng đến máy đo BG và các tác động trước khi phân tích như tắc và sốc ngoại vi.

    Hơn nữa, đào tạo ban đầu với các cập nhật thường xuyên và / hoặc đánh giá lại nên được thực hiện cho tất cả các nhân viên chăm sóc sức khỏe sử dụng thiết bị POCT và được quản lý theo hướng dẫn của phòng xét nghiệm địa phương. Ngoài ra, máy đo POCT phải được kiểm tra thường xuyên bằng tài liệu kiểm soát chất lượng nội bộ và phải thực hiện đăng ký chương trình đánh giá chất lượng bên ngoài để đảm bảo chức năng chính xác của máy đo.

    Công nhận rằng hầu hết tất cả các đơn vị hiện nay đều có thể sử dụng máy đo ceton. Tuy nhiên, hướng dẫn cũng được đưa ra về việc theo dõi điều trị bằng cách sử dụng tốc độ tăng bicarbonate và giảm BG như các biện pháp thay thế.

    2. SỰ THAM GIA CỦA CÁC NHÓM CHUYÊN GIA VỀ BỆNH ĐÁI THÁO ĐƯỜNG

    Nhóm chuyên gia về bệnh đái tháo đường phải luôn tham gia vào việc chăm sóc những bệnh nhân nhập viện với tình trạng nhiễm toan ceton. Sự tham gia của họ giúp rút ngắn thời gian nằm viện và cải thiện độ an toàn 19 , 20 . Điều này thực hiện càng sớm càng tốt trong giai đoạn cấp tính nhưng sẽ phụ thuộc vào hoàn cảnh địa phương. Phù hợp với BPT (Best Practice Tariff) cho nhiễm toan ceton, các bác sĩ chuyên khoa cũng phải tham gia vào việc đánh giá nguyên nhân gây nhiễm toan ceton, quản lý, xuất viện và theo dõi 21 , 22. Điều này cần bao gồm việc đánh giá sự hiểu biết về tình trạng của người bệnh đái tháo đường cộng với thái độ và niềm tin của họ cũng như đảm bảo cung cấp giáo dục có cấu trúc. Sự tham gia của chuyên gia là cần thiết để đảm bảo đánh giá thường xuyên và cải tiến chất lượng liên tục trong việc thực hiện các hướng dẫn về nhiễm toan ceton. Việc tiếp nhận, điều trị và xuất viện những người bị nhiễm toan ceton mà không có sự tham gia của nhóm chuyên gia về bệnh đái tháo đường có thể ảnh hưởng đến việc chăm sóc bệnh nhân an toàn. Việc kiểm tra và giám sát thường xuyên kết quả nhiễm toan ceton và kết quả hoạt động của các nhóm chuyên gia và không chuyên khoa có thể không được thực hiện thường xuyên. 3

    2.1 Các vấn đề chung về quản lý

    2.1.1 Quản lý dịch và những thiếu hụt

    Có sự thống nhất chung rằng can thiệp điều trị ban đầu quan trọng nhất trong nhiễm toan ceton là bù dịch thích hợp, sau đó là dùng insulin.

    Mục đích chính của việc bù dịch như sau:

    • Phục hồi thể tích tuần hoàn
    • Thanh thải ceton
    • Điều chỉnh sự mất cân bằng điện giải

    Sự thiếu hụt dịch và điện giải điển hình được thể hiện trong Bảng 1 . Ví dụ, một người lớn nặng 70 kg bị nhiễm toan ceton có thể bị thâm hụt tới 7 L. Nên được bù bằng dịch tinh thể. Ở những người bị suy thận hoặc suy tim, cũng như người già và thanh thiếu niên, tốc độ và thể tích bù dịch có thể cần được điều chỉnh. Mục đích của vài lít dịch đầu tiên là để điều chỉnh bất kỳ tình trạng hạ huyết áp nào, bổ sung sự thiếu hụt trong lòng mạch và chống lại tác động của bài niệu thẩm thấu với việc điều chỉnh rối loạn điện giải.

    BẢNG 1. Các thiếu hụt điển hình trong nhiễm toan ceton ở người lớn

    Nước 100 ml / kg
    Natri 7–10 mmol / kg

    Clorua: 3 –5 mmol / kg

    Kali 3 –5 mmol / kg

    Loại dịch bù

    ban đầu được lựa chọn là natri clorid 0,9%.

    Nhưng một khi BG giảm xuống dưới 14,0

    mmol / L, dịch truyền dextrose 10% nên được thêm vào để hoạt động như chất nền cho insulin, để ngăn ngừa hạ đường huyết. Tại sao những loại dịch này được sử dụng sẽ được thảo luận chi tiết trong Các khu vực gây tranh cãi .

    2.1.2 Liệu pháp insulin

    Nên truyền insulin tĩnh mạch tốc độ cố định (FRIII: fix rate intravenous insulin infusion) tính trên 0,1 đơn vị / kg (xem Bảng 2 ). Có thể cần phải ước tính trọng lượng của cá nhân. Insulin có một số tác dụng, nhưng những tác dụng sau đây là quan trọng nhất khi điều trị nhiễm toan ceton:

    • Ức chế sự tạo ceton
    • Giảm BG
    • Điều chỉnh rối loạn điện giải

    BẢNG 2. Tính liều insulin theo cân nặng

    Trọng lượng tính bằng kg Liều insulin mỗi giờ (đơn vị) ở 0,1 đơn vị / kg / h nếu glucose ≥14 mmol / L
    40–49 4
    50–59 5
    60–69 6
    70–79 7
    80–89 8
    90–99 9
    100–109 10
    110–119 11
    120–130 12
    130–139 13
    140–150 14

    0,9% (tức là 1 đơn vị / ml). Bảng 2 hỗ trợ tính toán liều lượng insulin theo cân nặng:

    Khi glucose giảm xuống <14 mmol / L thì ngoài việc bổ sung thêm dịch truyền dextrose 10%, hãy cân nhắc giảm tốc độ truyền insulin tĩnh mạch xuống 0,05 đơn vị / kg / h để tránh nguy cơ phát triển hạ đường huyết và hạ kali máu.

    2.1.3 Mục tiêu điều trị chuyển hóa

    Các mục tiêu được đề xuất là

    • Giảm nồng độ ceton trong máu 0,5 mmol / L / h
    • Tăng bicarbonate tĩnh mạch thêm 3,0 mmol / L / h
    • Giảm BG mao mạch 3.0 mmol / L / h
    • Duy trì kali từ 4,0 đến 5,5 mmol / L

    Nếu các mục tiêu này không đạt được, thì tốc độ FRIII nên được tăng lên (xem Quản lý DKA Phần B, Hành động 2).

    2.1.4 Tiếp tục insulin nền và tĩnh mạch và nồng độ glucose tĩnh mạch

    Để đảm bảo rằng ceton được đào thải, FRIII nên được tiếp tục cũng như truyền dung dịch natri clorid 0,9% để duy trì bù dịch. Nhưng một khi BG giảm xuống dưới 14,0 mmol / L, nên thêm dịch truyền dextrose 10% để hoạt động như chất nền cho insulin, để ngăn ngừa hạ đường huyết. Thường cần truyền đồng thời dung dịch natri clorid 0,9% và dextrose 10% (Phần B, Hành động 2). Không nên ngừng insulin và dextrose tĩnh mạch cho đến khi BN ăn uống bình thường.

    Đối với những người đã sử dụng insulin nền tác dụng dài, nó nên được tiếp tục sử dụng với liều lượng thông thường của họ. Ở những người mới được chẩn đoán, nên bắt đầu sử dụng insulin nền tác dụng kéo dài, với liều 0,25 đơn vị / Kg tiêm dưới da một lần mỗi ngày.

    2.2 Các đối tượng đặc biệt

    Các đối tượng sau đây cần ý kiến chuyên gia càng sớm càng tốt và cần đặc biệt chú ý đến sự cân bằng dịch của họ:

    • Người già
    • Có thai
    • Thanh niên 18–25 tuổi (xem phần phù não)
    • Suy tim hoặc thận
    • Các bệnh đồng mắc nghiêm trọng khác

    2.3 Các cân nhắc khác

    Phù hợp với một số khía cạnh của BPT, những người mắc bệnh đái tháo đường nhập viện với nhiễm toan ceton nên được giới thiệu đến nhóm chuyên gia đái tháo đường trong vòng một ngày. Cần tận dụng mọi cơ hội để giáo dục BN. Đặc biệt, họ nên được tư vấn về các nguyên nhân gây bệnh và các triệu chứng cảnh báo sớm. Những điều cần xem xét là:

    • Xác định (các) yếu tố thúc đẩy, ví dụ, bệnh từng đợt hoặc bỏ qua việc tiêm insulin
    • Xem xét kiểm soát đường huyết thông thường của họ
    • Xem xét kỹ thuật tiêm / giám sát BG / thiết bị / vị trí tiêm
    • Đối với những người sử dụng máy bơm insulin, hãy xem xét việc sử dụng thiết bị của họ và cung cấp chương trình đào tạo thêm về việc sử dụng công nghệ đó, nếu cần
    • Phòng ngừa tái phát, ví dụ, cung cấp các quy tắc viết về ngày ốm
    • Hiệu quả của insulin, ví dụ, insulin của chính họ có thể hết hạn hoặc bị biến tính. Điều này nên được kiểm tra trước khi sử dụng lại
    • Đánh giá nhu cầu và khi cần thiết, cung cấp máy đo ceton cầm tay để sử dụng tại nhà — đây phải là vị trí mặc định
    • Cung cấp số liên lạc về cách liên hệ với nhóm chuyên gia đái tháo đường ngoài giờ
    • Giáo dục của các chuyên gia chăm sóc sức khỏe về cách quản lý ceton máu
    • Cung cấp một kế hoạch chăm sóc bằng văn bản — cho phép BN có vai trò tích cực trong việc quản lý bệnh đái tháo đường của họ, với một bản sao của kế hoạch này sẽ được gửi cho bác sĩ gia đình của họ
    • Đối với những người nhập viện tái phát, thường có yếu tố tâm lý (ví dụ: rối loạn ăn uống, các rối loạn sức khỏe tâm thần chưa được chẩn đoán khác), có khả năng được hưởng lợi từ sự tham gia của nhóm sức khỏe tâm thần chính thức.

    2.4 Nhiễm toan ceton tái phát

    Những người bị nhiễm toan ceton tái phát nhiều lần (tức là hơn một đợt mỗi năm) chiếm một tỷ lệ đáng kể trong số tất cả các trường hợp nhiễm toan ceton nhập viện — ở Vương quốc Anh, chiếm 66% những người mắc bệnh đái tháo đường típ 1 và 35% những người mắc bệnh đái tháo đường típ 2 . 23 Nhiều người trong số những người này có sự chăm sóc rời rạc, những cân nhắc về xã hội, hành vi hoặc tâm lý cần được tính đến. 24 , 25 Các yếu tố nguy cơ khác của các đợt tái phát bao gồm giới tính nữ, tuổi vị thành niên, tình trạng kinh tế xã hội thấp và nhập viện nhiễm toan ceton trước đó. Các đợt nhiễm toan ceton tái phát có liên quan đến tăng nguy cơ suy giảm nhận thức lâu dài và tử vong sớm. 26 , 27 Các chiến lược để giúp đỡ các cá nhân có thể bao gồm liên lạc qua điện thoại thường xuyên, giới thiệu chính thức đến tâm lý học, quản lý insulin có giám sát — ví dụ, sử dụng các chất tương tự insulin tác dụng siêu dài.

    2.5 Các lĩnh vực gây tranh cãi

    Mặc dù đánh giá lâm sàng và mục tiêu điều trị trong xử trí nhiễm toan ceton không còn bàn cãi, nhưng vẫn còn bất đồng về phác đồ điều trị tối ưu. Trong trường hợp cơ sở bằng chứng không mạnh, các khuyến nghị dựa trên sự đồng thuận và kinh nghiệm. Một số điểm gây tranh cãi hơn bây giờ sẽ được xem xét và đưa ra các khuyến nghị thực hành tốt. Các khuyến nghị được đưa ra đầu tiên sau đó là cơ sở lý luận. Sự khác biệt giữa các hướng dẫn của Hoa Kỳ và Vương quốc Anh được thảo luận ở những nơi khác. 28

    Có một số vấn đề được coi là ‘gây tranh cãi’ trong các phiên bản trước của tài liệu này, nay đã trở thành thông lệ tiêu chuẩn. Chúng đã bị xóa khỏi phần này. Những điều này như sau:

    1. Đo độ pH và bicarbonate trong tĩnh mạch hơn là động mạch
    2. Máy đo ketone trong máu nên được sử dụng cho POCT
    3. Dung dịch natri clorua 0,9% là chất lỏng được khuyến cáo lựa chọn tại phòng y tế tổng quát (được khuyến nghị vì nó được bán trên thị trường với kali clorid pha sẵn, và do đó, tuân theo khuyến nghị của NPSA)
    4. Insulin người / analogue tác dụng kéo dài tiêm dưới da nên được tiếp tục
    5. Insulin nên được dùng dưới dạng FRIII được tính theo trọng lượng cơ thể
    6. Không sử dụng liều insulin mồi (bolus)

    2.6 Các khuyến nghị

    1. Cân nhắc giảm tốc độ truyền insulin xuống 0,05 đơn vị / kg / h khi glucose giảm xuống <14 mmol / L
    2. Dung dịch tinh thể chứ không phải dung dịch keo được khuyến khích để hồi sức dịch
    3. Dung dịch natri clorua 0,9% là loại dịch hồi sức được chọn
    4. Thận trọng bù dịch ở người trẻ
    5. Sử dụng bicarbonate không được khuyến khích thường quy
    6. Phosphat không nên được bổ sung thường quy
    7. Tốc độ hạ glucose ít nhất phải là 3,0 mmol / L / h
    8. Cân nhắc giảm tốc độ truyền insulin xuống 0,05 đơn vị / kg / h khi glucose giảm xuống <14,0 mmol / L

    Một cuộc khảo sát quốc gia về quản lý nhiễm toan ceton theo phiên bản trước của hướng dẫn này cho thấy tỷ lệ hạ đường huyết (< 4,0 mmol / L) và hạ kali máu (< 4,0 mmol / L) lần lượt là 27,6% và 67%. Mặc dù có thể những điều này xảy ra do 10% dextrose không được bổ sung kịp thời, hoặc dịch chứa kali không được cung cấp đúng cách, nhưng nguyên nhân chính dẫn đến cả hai bất thường sinh hóa này là do sử dụng insulin. Do đó, khi glucose giảm xuống dưới 14 mmol / L, cần xem xét giảm tốc độ truyền insulin tĩnh mạch xuống 0,05 đơn vị / kg / giờ. Đây đã là một lựa chọn trong hướng dẫn dành cho người lớn ở những nơi khác, 24 và một số nghiên cứu nhi khoa đã gợi ý rằng tốc độ phân giải nhiễm toan ceton không lâu hơn so với 0,1 đơn vị / kg / h. 29 – 31 Do đó, nó cũng được đưa vào hướng dẫn nhi khoa của Vương quốc Anh. 32

    1. Dịch keo so với dịch tinh thể?

    Một tổng quan của Cochrane năm 2007 cũng không ủng hộ việc sử dụng dịch keo thay vì dịch tinh thể. 33 Một tài liệu đồng thuận khác năm 2013 đề xuất rằng nên tránh dùng dịch keo khi có thể, vì có thể có nguy cơ tăng tỷ lệ tử vong và bệnh tật liên quan đến việc sử dụng chúng. 34 Vì vậy, chúng tôi khuyến nghị sử dụng dịch thể tinh thể làm loại dịch ban đầu được lựa chọn.

    1. Dung dịch natri clorid 0,9% hay dung dịch tinh thể cân bằng để hồi sức?

    Đã có nhiều tranh luận về giá trị tương đối của hai giải pháp này. 35 Hai thử nghiệm ngẫu nhiên đã so sánh dung dịch natri clorid 0,9% với dung dịch Hartmann. 36 , 37 Cả hai đều không cho thấy sự vượt trội của loại dịch này so với loại dịch kia về kết quả lâm sàng. Gần đây hơn, một phân tích sau phân nhóm thứ cấp của hai thử nghiệm được tiến hành trong phòng cấp cứu cho thấy rằng dịch tinh thể cân bằng có thể dẫn đến phân giải nhiễm toan ceton nhanh hơn so với natri clorid 0,9%. 38 Điều này hạn chế việc sử dụng tinh thể ở những môi trường có khả năng tiếp cận tĩnh mạch trung tâm và nồng độ kali cao hơn có thể được cung cấp. 38Kết quả của một đánh giá có hệ thống về việc lựa chọn loại dịch thể tinh thể trong các trường hợp tăng đường huyết cấp cứu đang được chờ đợi. 39 Cho đến lúc đó, chúng tôi tiếp tục khuyến nghị rằng natri clorid 0,9% với kali clorid pha sẵn là dung dịch mặc định để hồi sức dịch vì nó tuân thủ các khuyến nghị của NPSA. Hơn nữa, các chuyên gia và bác sĩ đái tháo đường có nhiều kinh nghiệm trong việc sử dụng an toàn loại dịch này. Chúng tôi cũng nhận thấy rằng nhiều đơn vị ICU sẽ thích sử dụng các tinh thể cân bằng như dung dịch Hartmann. Điều này có thể chấp nhận được với điều kiện các chính sách địa phương được tuân thủ để sử dụng an toàn kali clorua bổ sung (Bảng 3 ).

    BẢNG 3. Ưu nhược điểm của dung dịch tiêm truyền

    Dung truyền dịch Thuận lợi Nhược điểm
    0,9% clorua natri
    • Nhiều thập kỷ kinh nghiệm lâm sàng
    • Sẵn có trong các khoa lâm sàng
    • Có bán sẵn trên thị trường loại đã trộn sẵn với kali ở nồng độ cần thiết, 20
    • Nhiễm toan chuyển hóa tăng clo máu, có thể gây co tiểu động mạch thận dẫn đến
    Dung dịch

    truyền

    Thuận lợi Nhược điểm
    mmol / L (0,15%) hoặc 40 mmol / L (0,3%)

    • Hỗ trợ thực hành an toàn với kali tiêm (tuân thủ NPSA (cảnh báo NPSA

    2002))

    thiểu niệu và làm chậm quá trình phân giải toan
    Dung dịch

    Hartmanns

    • Tinh thể cân bằng ít gây nhiễm toan chuyển hóa tăng clo máu
    • Không đủ kali nếu sử dụng một mình
    • Không có sẵn trên thị trường loại trộn sẵn kali đầy đủ. Bổ sung kali trong các khoa lâm sàng tổng quát là không an toàn. (Cảnh báo NPSA 2002)
    • Không quen thuộc và không thường xuyên được lưu giữ tại các khoa phòng
    4. Tốc độ bù dịch?

    Trong nhiều năm, người ta lo ngại rằng việc bù dịch nhanh chóng có thể dẫn đến phù não ở trẻ em và thanh niên. Cho đến năm 2018, không có thử nghiệm đối chứng ngẫu nhiên nào tồn tại để hướng dẫn việc ra quyết định trong lĩnh vực này. Tuy nhiên, một thử nghiệm lớn, ngẫu nhiên có đối chứng gồm 1389 đợt nhiễm toan ceton đã chọn ngẫu nhiên trẻ em từ 0 đến 18 tuổi dùng dung dịch natri clorid 0,45% hoặc 0,9% bù nhanh hay chậm (tức là thử nghiệm giai thừa 2 x 2). 40 Chắc chắn rằng các tác giả này không tìm thấy sự khác biệt về kết cục thần kinh ở trẻ em bị nhiễm toan ceton được điều trị bằng cách điều chỉnh thể tích nhanh và chậm hơn hoặc sử dụng natri clorid 0,9% so với 0,45%. Người ta cảm thấy rằng sự phát triển của phù não là đa yếu tố, nhưng thường mang tính chất riêng (idiosyncratic). 41

    1. Bicarbonat tĩnh mạch?

    Điều trị bằng insulin và bù dịch đầy đủ sẽ giải quyết tình trạng nhiễm toan trong DKA, và việc sử dụng bicarbonate không được chỉ định. 42 – 45 Nhiễm toan có thể là một phản ứng thích ứng vì nó cải thiện việc cung cấp oxy đến các mô bằng cách gây ra sự dịch chuyển sang phải của đường cong phân ly oxy. Quá nhiều bicarbonate có thể làm tăng áp suất riêng phần CO2 trong dịch não tủy (CSF) và có thể dẫn đến tăng nhiễm toan dịch não tủy một cách nghịch lý. 42 Ngoài ra, việc sử dụng bicarbonate trong nhiễm toan ceton có thể làm chậm sự giảm tỉ lactate:pyruvate và ceton trong máu so với truyền tĩnh mạch natri clorid 0,9%. 43 Đội ICU đôi khi có thể sử dụng bicarbonate tĩnh mạch nếu độ pH vẫn thấp và inotrope được chỉ định.

    1. Sử dụng phosphat tĩnh mạch?

    Nồng độ photphat thường được thực hiện theo tiêu chuẩn khi ‘hồ sơ xương’ (bone profile) được yêu cầu. Mặc dù nồng độ ban đầu trong huyết thanh có vẻ bình thường, nhưng sự suy giảm nội bào đáng kể có nghĩa là sự thiếu hụt phosphate toàn cơ thể trong nhiễm toan ceton là đáng kể, trung bình là 1 mmol / kg thể trọng. Thiếu phosphat trầm trọng có thể làm trầm trọng thêm tình trạng suy hô hấp, làm rối loạn nhịp tim và gây tiêu cơ vân. Nếu có bất kỳ dấu hiệu nào trong số này thì việc đo lường và bổ sung photphat nên được xem xét theo hướng dẫn của địa phương. 24 , 46 Tuy nhiên, nói chung, không có bằng chứng về lợi ích của việc bổ sung phosphate thường quy. 47 Do đó, chúng tôi không khuyến nghị bổ sung phosphate thường quy.

    1. Tốc độ hạ đường huyết nên là bao nhiêu?

    Dữ liệu từ các nghiên cứu được công bố vào những năm 1970 48 , 49 cho thấy rằng việc sử dụng truyền insulin liều thấp (tức là 0,1 đơn vị / kg / giờ) dẫn đến mức đường huyết giảm xuống ở cùng tốc độ so với insulin liều cao trong nhiều thập kỷ trước, với mức đường huyết giảm khoảng 50% – 60% trong 4 giờ đầu tiên. Nguy cơ lý thuyết về sự thay đổi thẩm thấu lớn do sự thay đổi nhanh chóng của glucose huyết tương là rất hiếm trong nhiễm toan ceton, và do đó độ an toàn của việc sử dụng 0,1 đơn vị / kg / h cao hơn bất kỳ nguy cơ nào.

    2.7 Các biến chứng của nhiễm toan ceton và cách điều trị

    1. Hạ kali máu và tăng kali máu

    Do mất nước, thiếu insulin và nhiễm toan chuyển hóa, tăng kali huyết nên được tìm kiếm khi chẩn đoán ban đầu nhiễm toan ceton. Trong một cuộc khảo sát quốc gia của Vương quốc Anh 283 người được điều trị với ấn bản năm 2013 của hướng dẫn này, lượng kali nhập viện trung bình (± SD) là 4,8 (± 1,0) mmol / L.45 Hạ kali máu và tăng kali máu là những tình trạng có thể đe dọa tính mạng trong quá trình điều trị nhiễm toan ceton. Do nguy cơ tổn thương thận cấp trước thận liên quan đến mất nước nghiêm trọng, khuyến cáo không kê đơn kali khi hồi sức dịch ban đầu hoặc nếu nồng độ kali huyết thanh vẫn trên 5,5 mmol / L. Nồng độ kali huyết thanh bình thường hoặc thậm chí tăng cao có thể được nhìn thấy do sự chuyển dịch ngoại bào của kali trong tình trạng toan, và điều này phản ánh rất kém tổng lượng kali dự trữ. Tuy nhiên, kali hầu như sẽ luôn giảm khi nhiễm toan ceton được điều trị bằng insulin và khảo sát ở Anh cho thấy 67,1% bị hạ kali máu (<4,0 mmol / L) sau 24 giờ sau khi nhập viện. 45

    Do đó, người ta khuyến cáo rằng dung dịch natri clorid 0,9% với kali 40 mmol / L (pha sẵn) được chỉ định miễn là nồng độ kali huyết thanh dưới 5,5 mmol / L và người bệnh đang đi tiểu. Nếu nồng độ kali huyết thanh giảm xuống dưới 3,5 mmol / L, chế độ điều trị kali cần được xem xét lại. Khi cân bằng dịch cho phép, có thể tăng tốc độ truyền dung dịch natri clorid 0,9% với kali 40 mmol / L. Nếu không, sẽ cần truyền kali đậm đặc hơn và để đảm bảo thực hành an toàn, tất cả các khía cạnh của việc sử dụng nó phải tuân theo hướng dẫn của địa phương và quốc gia. 50 , 51

    Ngoài việc bù không đầy đủ, nguyên nhân chính dẫn đến hạ kali máu là việc sử dụng insulin. Do đó, khi glucose giảm xuống dưới 14 mmol / L, cần xem xét giảm tốc độ truyền insulin tĩnh mạch xuống 0,05 đơn vị / kg / h.

    Cần đảm bảo rằng có các protocol riêng, cho phép sử dụng các dung dịch kali đậm đặc một cách an toàn. Điều này có thể yêu cầu chuyển sang môi trường chăm sóc Cấp 2 hoặc Cấp 3.

    1. Hạ đường huyết

    BG có thể giảm rất nhanh khi tình trạng nhiễm toan ceton được điều chỉnh và một sai lầm phổ biến là để cho BG giảm xuống mức hạ đường huyết. Trong cuộc khảo sát quốc gia của Vương quốc Anh trên 283 người được điều trị với ấn bản năm 2013 của hướng dẫn này, đường huyết đã giảm xuống < 4,0 mmol / L ở 27,6% số người. 45 Hạ đường huyết nghiêm trọng (tức là cần sự trợ giúp của bên thứ ba) cũng liên quan đến việc tăng thời gian nằm viện, rối loạn nhịp tim, tổn thương não cấp tính và tử vong. 52 Nguyên nhân chính dẫn đến hạ đường huyết là sử dụng insulin. Vì vậy, ngoài việc bắt đầu dùng dextrose 10% cùng với dung dịch natri clorid 0,9%, khi glucose giảm xuống dưới 14 mmol / L, cần xem xét giảm tốc độ truyền insulin tĩnh mạch xuống 0,05 đơn vị / kg / h.

    1. Phù não

    Các triệu chứng gây ra phù não tương đối không phổ biến ở người lớn, mặc dù có thể xảy ra ở những người thể chất gầy hoặc ở những người trẻ tuổi. Phù não không triệu chứng có thể là hiện tượng phổ biến và có thể tồn tại trước khi bắt đầu điều trị. 24 , 53 Nguyên nhân chính xác của hiện tượng này vẫn chưa được biết. Chắc chắn rằng một thử nghiệm ngẫu nhiên lớn có đối chứng giữa dung dịch natri clorid 0,9% so với dung dịch natri clorid 0,45%, mỗi lần được cho nhanh hoặc chậm, cho thấy không có sự khác biệt về tỷ lệ phát triển tổn thương thần kinh. 40 Do đó, nó có thể là một phản ứng đặc trưng đối với tổn thương chuyển hóa và điều trị tiếp theo. Tuy nhiên, bất kỳ sự suy giảm nào trong thang điểm Hôn mê Glasgow đều cần được điều trị và chụp hình ảnh khẩn cấp. Nếu nghi ngờ có phù não, nên bắt đầu điều trị khẩn cấp bằng mannitol hoặc nước muối ưu trương để gây chuyển dịch dịch thẩm thấu và không được trì hoãn trong khi chờ chụp hình ảnh. 24

    1. Các biến chứng khác

    Một số biến chứng khác có thể xảy ra với một số biến chứng tương đối phổ biến, thường nhẹ và dễ điều trị. Tuy nhiên, một số biến chứng khác có thể nghiêm trọng hơn. Chúng bao gồm sự phát triển của bệnh huyết khối tĩnh mạch, đặc biệt nếu sử dụng catheter tĩnh mạch trung tâm. Tổn thương thận cấp thoáng qua có thể xảy ra ở 50% người lớn. 24 Các biến chứng hiếm gặp khác bao gồm phù phổi; tăng men tụy, có hoặc không có viêm tụy cấp; bệnh cơ tim; tiêu cơ vân; và xuất huyết tiêu hóa. 24

    2.8 Xử trí nhiễm toan ceton ở người suy thận giai đoạn cuối hoặc đang lọc máu

    May mắn thay, đây là một sự xuất hiện tương đối hiếm. Có rất ít dữ liệu về việc quản lý nhiễm toan ceton trong trường hợp này. 54 – 57 Sự thiếu thanh thải insulin ở thận có nghĩa là nhiễm toan ceton ít xảy ra hơn nhiều. Nó cũng có thể khó xác định vì nhiễm toan chuyển hóa mãn tính liên quan đến bệnh thận mãn tính tiến triển (giai đoạn 4 và 5). Dữ liệu gần đây cho thấy rằng những người có biểu hiện nhiễm toan ceton với bệnh thận giai đoạn cuối có nồng độ ß-hydroxybutyrate thấp hơn, mức glucose và khoảng trống anion cao hơn so với những người có chức năng thận được bảo tồn. 58 Bicarbonate và pH không khác nhau có ý nghĩa. 58 Khi nhiễm toan ceton xảy ra trong bệnh thận giai đoạn cuối, cần phải xem xét một số vấn đề.

    2.8.1 Bù dịch

    Không có khả năng phát triển bài niệu thẩm thấu có nghĩa là tăng đường huyết liên quan đến lọc máu và nhiễm ceton có thể xảy ra mà không bị mất nước nhiều. Bối cảnh hỗn hợp của nhiễm toan ceton và tăng đường huyết tăng áp lực thẩm thấu cũng có thể xảy ra do trương lực huyết thanh cao. 56 Ngoài ra, thể tích nội mạch tuần hoàn có thể tăng lên cùng với thể tích nội bào được phân giải khi glucose và nhiễm toan ceton được bình thường hóa. Do đó, có thể không cần bù dịch ở những người suy thận giai đoạn cuối hoặc những người đang lọc máu. Tuy nhiên, đối với những người được coi là giảm thể tích máu, có thể dùng 250 ml (0,9% natri clorid hoặc 10% dextrose) với các đánh giá lâm sàng thường xuyên.

    2.8.2 Điều trị bằng insulin

    Đối với những người bị suy thận giai đoạn cuối hoặc những người đang lọc máu, thay thế insulin là phương pháp điều trị chính. Điều này nên được cung cấp dưới dạng FRIII với tốc độ ban đầu là 0,1 đơn vị / kg / h, nhưng có thể cần tăng lên nếu không đạt được tốc độ giảm glucose theo yêu cầu. Tuy nhiên, việc thận không đào thải insulin sẽ làm tăng nguy cơ hạ đường huyết. Tuy nhiên, tốc độ giảm glucose cũng giống như ở những người có chức năng thận được bảo tồn – nghĩa là 3,0 mmol / L / h. Nếu tốc độ giảm nhanh hơn, hoặc glucose giảm xuống < 14,0 mmol / L thì cần xem xét giảm tốc độ truyền insulin tĩnh mạch xuống 0,05 đơn vị / kg / h.

    2.8.3 Kali

    Thường không cần bổ sung kali vì thiếu bài niệu thẩm thấu có nghĩa là mất kali ít hơn đáng kể so với những người có chức năng thận được bảo tồn. Tuy nhiên, tình trạng nhiễm toan có thể dẫn đến tăng kali huyết đáng kể, và điều này thường xảy ra hơn ở những người bị suy thận. 54 Trong trường hợp này, theo dõi monitoring tim liên tục là điều cần thiết, và đội chăm sóc quan trọng hoặc chuyên khoa thận nên tham gia để xem xét việc chạy thận nhân tạo / lọc máu khẩn cấp.

    3. CÁCH CHĂM SÓC TOAN CETON

    Nhiễm toan ceton là một cấp cứu nội khoa với tỷ lệ tàn tật và tử vong đáng kể. Nó cần được chẩn đoán kịp thời và quản lý chuyên sâu. Nhóm chuyên gia về bệnh đái tháo đường phải luôn tham gia càng sớm càng tốt và lý tưởng nhất là trong vòng 24 giờ vì điều này đã được chứng minh là có liên quan đến trải nghiệm tốt hơn cho BN và giảm thời gian lưu trú. 59

    Trong trường hợp thanh thiếu niên từ 16–18 tuổi được quản lý bởi các đội y tế người lớn do sự sắp xếp của địa phương, thì việc quản lý họ bằng cách sử dụng các hướng dẫn dành cho người lớn tại địa phương mà các nhóm đã quen thuộc được coi là phù hợp hơn là sử dụng các hướng dẫn dành cho trẻ em có thể không quen thuộc.

    Khi các bệnh nhân trong độ tuổi 16-18 được quản lý bởi các đội nhi khoa, cần tuân thủ các hướng dẫn về nhi khoa.

    3.1 Đánh giá mức độ nghiêm trọng

    Sự hiện diện của một hoặc nhiều điều sau đây có thể cho thấy nhiễm toan ceton nghiêm trọng:

    • Ceton máu trên 6,0 mmol / L
    • Mức bicarbonate dưới 5,0 mmol / L
    • Độ pH tĩnh mạch / động mạch dưới 7,0
    • Hạ kali máu khi nhập viện (dưới 3,5 mmol / L)
    • GCS thấp hơn 12 hoặc AVPU bất thường
    • Độ bão hòa oxy dưới 92% trong không khí phòng (giả sử chức năng hô hấp nền bình thường)
    • HA tâm thu dưới 90 mm Hg
    • Mạch trên 100 hoặc dưới 60 lần/phút
    • Khoảng trống anion trên 16 [Khoảng cách anion = (Na + + K + ) – (Cl + HCO 3 )]

    Nếu cá nhân có bất kỳ dấu hiệu nào trong số này, cần bắt đầu hồi sức và điều trị ngay lập tức, đồng thời áp dụng một chế độ theo dõi chuyên sâu. Tùy thuộc vào hoàn cảnh địa phương, những cá nhân đáp ứng các tiêu chí về mức độ nghiêm trọng hoặc những người cần theo dõi chuyên sâu nên được bác sĩ tư vấn xem xét và xem xét để giới thiệu nhanh chóng đến môi trường Cấp 2 / HDU (High Dependency Unit), hoặc nếu bệnh nhân đó không cải thiện sau các biện pháp hồi sức ban đầu. 60 Cũng có thể cần xem xét nguyên nhân ngoại khoa đối với tình trạng xấu đi. Nếu cần phải phẫu thuật, sẽ cần có một cuộc thảo luận đa chuyên khoa cấp cao khẩn cấp về thời gian tối ưu để phẫu thuật.

    Ở những bệnh nhân sử dụng máy bơm insulin, nếu cần chuyển sang Cấp 2 / HDU hoặc ITU, thì máy bơm phải được dừng lại, lấy ra và cất giữ an toàn.

    Việc sử dụng theo dõi đường huyết nhanh (ví dụ, Freestyle Libre ® , Dexcom G6 ® , v.v.) trong những trường hợp này không được biết đến. Cần phải làm thêm để xác định công dụng của chúng trong trường hợp bệnh nặng. Các dữ liệu này có thể được để lại cho đến khi có sẵn, nhưng không nên sử dụng dữ liệu từ chúng để hướng dẫn điều trị.

    Ví dụ về insulin tĩnh mạch và phác đồ truyền dịch được trình bày trong Phụ lục 2 .

    4. 0–60 phút: QUẢN LÝ NGAY LẬP TỨC KHI CHẨN ĐOÁN

    T = 0 tại thời điểm bắt đầu truyền dịch tĩnh mạch. Nếu có vấn đề với việc tiếp cận tĩnh mạch, cần yêu cầu hỗ trợ tử ICU ngay lập tức.

    4.1 Mục tiêu

    • Khời đầu với dung dịch natri clorid 0,9% IV
    • Bắt đầu FRIII, nhưng chỉ sau khi bù dịch đã được khởi đầu
    • Thiết lập chế độ giám sát phù hợp; thường đo BG hàng giờ và đo ceton hàng giờ, kèm kali và bicarbonate huyết thanh / máu ít nhất mỗi 2 giờ trong 6 giờ đầu tiên
    • Đánh giá lâm sàng và sinh hóa của BN
    • Tham gia với nhóm chuyên gia về bệnh đái tháo đường ở giai đoạn sớm nhất có thể
    • Xem xét giới thiệu đến môi trường Cấp 2 / HDU nếu đáp ứng các tiêu chí về mức độ nghiêm trọng hoặc nếu không có sẵn các phương tiện để giám sát chuyên sâu

    4.2 Hành động 1 — Tiếp cận đường tĩnh mạch và kiểm tra ban đầu

    • ABC nhanh (Đường thở, Hô hấp, Tuần hoàn)
    • Catheter IV lớn và bắt đầu bù dịch IV (Xem Hành động 2)
    • Đánh giá lâm sàng
    • Tần số hô hấp, nhiệt độ, huyết áp, mạch, độ bão hòa oxy
    • Thang điểm Hôn mê Glasgow: một BN ngủ gà trong bối cảnh nhiễm toan ceton là đáng lo ngại nghiêm trọng, và BN đó cần được đánh giá chăm sóc quan trọng. Xem xét đặt sonde dạ dày để bảo vệ đường thở để ngăn chặn hít sặc
    • Khám lâm sàng đầy đủ

    Các kiểm tra ban đầu nên bao gồm những điều sau:

    • Ceton máu
    • Glucose mao mạch
    • Glucose huyết tương tĩnh mạch
    • Urê và chất điện giải (bao gồm cả phốt phát nếu cần)
    • Khí máu tĩnh mạch
    • Tổng phân tích tế bào máu
    • Cấy máu (nếu nghi ngờ nhiễm trùng)
    • Điện tâm đồ
    • X quang phổi nếu có chỉ định lâm sàng
    • Phân tích nước tiểu và cấy nước tiểu
    • Monitoring tim liên tục
    • Đo SpO2 liên tục
    • Xem xét nguyên nhân thúc đẩy và điều trị thích hợp
    • Thiết lập thuốc thông thường cho bệnh đái tháo đường
    • Thử thai ở phụ nữ trong độ tuổi sinh đẻ
    • Xét nghiệm COVID-19 — đặc biệt ở những người không được biết là có bệnh đái tháo đường trước đây.

    4.3 Hành động 2 — Phục hồi thể tích tuần hoàn

    Đánh giá mức độ nghiêm trọng của tình trạng mất nước bằng cách sử dụng mạch và huyết áp. Theo hướng dẫn, 90 mm Hg có thể được sử dụng như một thước đo mất nước nhưng cần tính đến tuổi tác, giới tính và thuốc dùng đồng thời.

    4.3.1 HA tâm thu khi nhập viện dưới 90 mm Hg

    Tụt huyết áp có khả năng là do khối lượng tuần hoàn thấp, nhưng cần xem xét các nguyên nhân khác như suy tim và nhiễm trùng huyết.

    • Cho 500 ml dung dịch natri clorid 0,9% trong 10–15 phút. Nếu HA tâm thu (SBP) duy trì dưới 90 mm Hg, điều này có thể được lặp lại trong khi đường truyền lớn. Trong thực tế, hầu hết các cá nhân cần từ 500 đến 1000 ml được cung cấp nhanh chóng.
    • Nếu không có cải thiện về mặt lâm sàng, hãy xem xét lại các nguyên nhân khác gây hạ huyết áp và tìm kiếm đánh giá cấp cao ngay lập tức. Cân nhắc hội chẩn ITU / nhóm chăm sóc quan trọng.
    • Khi HATT trên 90 mm Hg, hãy bù dịch như hình dưới đây.

    4.3.2 HA tâm thu khi nhập viện 90 mm Hg trở lên

    Bảng 4 phác thảo một chế độ bù dịch điển hình cho một người lớn 70 kg trước đây khỏe mạnh. Đây chỉ là một hướng dẫn minh họa. Tốc độ truyền chậm hơn nên được xem xét ở người trẻ (xem Các khu vực tranh cãi).

    BẢNG 4. Sơ lược về một phác đồ bù dịch điển hình cho một người lớn 70 kg trước đây khỏe mạnh

    Loại dịch Lượng dịch
    0,9% natri clorua 1 L a 1000 ml trong giờ đầu tiên
    0,9% natri clorua 1 L với kali clorua 1000 ml trong 2 giờ tiếp theo
    0,9% natri clorua 1 L với kali clorua 1000 ml trong 2 giờ tiếp theo
    0,9% natri clorua 1 L với kali clorua 1000 ml trong 4 giờ tiếp theo
    0,9% natri clorua 1 L với kali clorua 1000 ml trong 4 giờ tiếp theo
    0,9% natri clorua 1 L với kali clorua 1000 ml trong 6 giờ tiếp theo
    Ghi chú
    • Đánh giá lại tình trạng tim mạch lúc 12 giờ là bắt buộc, dịch truyền thêm có thể được chỉ định.
    • Kali clorua có thể được chỉ định nếu hơn 1 L natri clorua đã được cung cấp để hồi sức cho những BN bị hạ huyết áp.

    4.4 Thận trọng trong các nhóm sau:

    • Thanh niên từ 18–25 tuổi
    • Người già
    • Có thai
    • Suy tim hoặc thận
    • Các bệnh đồng mắc nghiêm trọng khác

    Trong những tình huống này, việc nhập vào khu vực chăm sóc Cấp 2 / HDU nên được xem xét.Dịch truyền nên được bù một cách thận trọng.

    4.5 Hành động 3 — Bù kali

    Hạ kali máu và tăng kali máu là những tình trạng đe dọa tính mạng và thường gặp trong nhiễm toan ceton. Kali huyết thanh thường cao khi nhập viện (mặc dù tổng lượng kali trong cơ thể thấp) nhưng giảm mạnh khi điều trị bằng insulin. Giám sát thường xuyên là bắt buộc (Bảng 5 ).

    BẢNG 5. Chế độ bù kali được đề xuất

    Mức kali trong 24 giờ đầu tiên

    (mmol / L)

    Bù kali tính bằng mmol / L của dịch truyền
    Trên 5,5 Không
    3,5–5,5 40
    Mức kali trong 24 giờ đầu tiên

    (mmol / L)

    Bù kali tính bằng mmol / L của dịch truyền
    Dưới 3,5 Đánh giá chuyên sâu vì cần cung cấp thêm kali

    (xem phần các biến chứng nghiêm trọng)

    4.6 Hành động 4 — Bắt đầu truyền insulin tĩnh mạch tốc độ cố định

    • Nếu người đó không thể cho biết trọng lượng của họ hoặc không có sẵn, hãy ước tính nó bằng kilôgam
    • Nếu là phụ nữ mang thai, hãy sử dụng cân nặng hiện tại của cô ấy và gọi thêm trợ giúp sản khoa cấp cao ngay lập tức
    • Bắt đầu FRIII liên tục thông qua một máy bơm truyền dịch. Thuốc này được làm từ 50 đơn vị human soluble insulin (Actrapid ® , Humulin S ® ) được pha với dung dịch natri clorid 0,9% cho đủ 50 ml. Tốt nhất, thuốc này nên được cung cấp dưới dạng giải pháp làm sẵn
    • Truyền với tốc độ cố định 0,1 đơn vị / kg / giờ (tức là 7 ml / giờ nếu cân nặng là 70 kg) (xem Bảng 3 )
    • Chỉ tiêm bắp insulin liều bolus (stat) (0,1 đơn vị / kg) nếu có sự chậm trễ trong việc thiết lập FRIII
    • Nếu BN thường dùng insulin nền tác dụng kéo dài (ví dụ: glargine, degludec, detemir hoặc insulin isophane của người), hãy tiếp tục điều này ở liều thông thường và thời gian bình thường
    • Insulin có thể được truyền cùng đường với đường truyền bù dịch với điều kiện phải sử dụng đầu nối chữ Y với van một chiều chống siphon (one way, anti-siphon valve) và đã đặt một đường truyền lớn. Tuy nhiên, 2 đường truyền IV lớn là khôn ngoan.

    5. 60 phút – 6 giờ

    5.1 Mục tiêu

    • Loại bỏ ceton máu và ngăn chặn quá trình tạo ceton
    • Đạt được tốc độ giảm ceton ít nhất 0,5 mmol / L / h
    • Trong trường hợp không có máy đo ceton, bicarbonate nên tăng 3,0 mmol / L / h và BG nên giảm 3,0 mmol / L / h
    • Duy trì kali huyết thanh ở mức bình thường
    • Tránh hạ đường huyết
    • Xem xét giới thiệu đến môi trường chăm sóc Cấp độ 2 (HDU) nếu đáp ứng các tiêu chí về mức độ nghiêm trọng sau khi hồi sức ban đầu hoặc nếu không có sẵn các phương tiện để theo dõi chuyên sâu

    5.2 Hành động 1 — Đánh giá lại và theo dõi các dấu hiệu quan trọng

    • Trong thời gian này, các BN nên được theo dõi ban đầu hàng giờ để đảm bảo rằng đang tiến triển tốt trong việc giảm nồng độ ceton và / hoặc glucose
    • Cân nhắc đặt ống thông tiểu nếu BN tiểu không tự chủ được hoặc không tiểu được (tức là không có nước tiểu trong vòng 60 phút)
    • Cân nhắc việc đặt ống thông mũi-dạ dày nếu người bệnh bị chướng bụng hoặc nôn liên tục
    • Nếu độ bão hòa oxy giảm thì tiến hành đo khí máu động mạch và yêu cầu chụp X quang phổi lặp lại.
    • Quan sát thường xuyên và lập biểu đồ Điểm cảnh báo sớm (EWS) khi thích hợp
    • Thường xuyên đánh giá thang điểm Hôn mê Glasgow, nếu điểm này giảm xuống thì nên xem xét chụp ảnh não khẩn cấp
    • Duy trì biểu đồ cân bằng chất lỏng chính xác, lượng nước tiểu tối thiểu không được dưới 0,5 ml / kg / h
    • Theo dõi tim liên tục ở những người bị nhiễm toan ceton nặng
    • Cung cấp heparin trọng lượng phân tử thấp dự phòng theo hướng dẫn của NICE 61

    5.3 Hành động 2 — Xem lại các thông số chuyển hóa

    • Đo ceton máu và đường huyết mao mạch hàng giờ (Lưu ý: nếu máy đo ghi ‘BG trên 20 mmol / L’ hoặc ‘Hi’, máu tĩnh mạch phải được gửi đến phòng xét nghiệm hàng giờ hoặc đo bằng cách sử dụng máu tĩnh mạch trong máy phân tích khí máu cho đến khi nồng độ glucose máu nằm trong giới hạn đo của máy POCT)
    • Các kết quả đo đường huyết hàng giờ nên được ghi trực tiếp vào hệ thống bệnh lý của bệnh viện. Trong trường hợp không thể thực hiện được điều này (ví dụ, với các máy đo đường huyết không nối mạng), kết quả phải được ghi lại trong ghi chú
    • Xem lại đáp ứng với FRIII hàng giờ bằng cách tính toán tốc độ thay đổi mức giảm ceton (hoặc tăng bicarbonate hoặc giảm glucose)
    • Đánh giá sự phân giải của nhiễm toan ceton
      1. Nếu có kết quả đo ceton trong máu và ceton trong máu không giảm ít nhất 0,5 mmol / L / h, hãy gọi bác sĩ lâm sàng để tăng tốc độ truyền insulin lên 1,0 đơn vị / h mỗi giờ cho đến khi ceton giảm ở tốc độ mục tiêu (cũng kiểm tra bơm tiêm insulin có hoạt động và được kết nối không, cũng như lượng thể tích insulin còn lại trong máy bơm có đúng không) *
      2. Nếu không có máy đo ceton máu, hãy dùng bicarbonat tĩnh mạch. Nếu bicarbonate không tăng ít nhất 3,0 mmol / L / h, hãy gọi bác sĩ lâm sàng để tăng tốc độ truyền insulin lên 1 đơn vị / h, tăng dần hàng giờ cho đến khi bicarbonate tăng với tốc độ này *
      3. Hoặc sử dụng glucose huyết tương. Nếu glucose không giảm ít nhất 3,0 mmol / L / h, hãy gọi bác sĩ lâm sàng để tăng tốc độ truyền insulin thêm 1,0 đơn vị / giờ, tăng

    dần hàng giờ cho đến khi glucose giảm ở tốc độ này. Mức độ glucose không phải là một chỉ số chính xác để phân giải toan trong nhiễm toan ceton, vì vậy việc phân giải toan phải được xác minh bằng phân tích khí máu tĩnh mạch *

    • Đo khí máu tĩnh mạch để tìm pH, bicarbonate và kali ở 60 phút, 2 giờ và mỗi 2 giờ sau đó
    • Nếu kali nằm ngoài phạm vi tham chiếu (4,0–5,5 mmol / L), hãy đánh giá mức độ thích hợp của việc bù kali và kiểm tra hàng giờ. Nếu nó vẫn bất thường sau một giờ nữa, hãy tìm kiếm lời khuyên y tế cấp cao ngay lập tức (xem Hành động 3)
    • Tiếp tục FRIII cho đến khi kết quả đo ceton dưới 0,6 mmol / L, pH tĩnh mạch trên 7,3 và / hoặc bicarbonate tĩnh mạch trên 18 mmol / L (xem phần C)
    • Không dựa vào độ thanh thải ceton trong nước tiểu để chỉ ra sự phân giải của nhiễm toan ceton vì chúng sẽ vẫn còn khi tình trạng nhiễm ceton đã được giải quyết 14
    • Nếu glucose giảm xuống dưới 14,0 mmol / L, bắt đầu dùng glucose 10% ở 125 ml / h cùng với dung dịch natri clorid 0,9%. Ngoài ra, cân nhắc giảm tốc độ truyền insulin tĩnh mạch xuống 0,05 đơn vị / kg / h.
    • Theo dõi và bù kali vì nó có thể giảm nhanh (Insulin tĩnh mạch và dextrose tĩnh mạch nên được truyền qua chạc ba chữ Y) **

    5.4 Hành động 3 — Xác định và xử lý các yếu tố kết tủa 5.5 Hành động 4 — Sử dụng insulin tác dụng kéo dài

    Những người mắc bệnh đái tháo đường mới được chẩn đoán nên được tiêm insulin nền tác dụng kéo dài (ví dụ: glargine, detemir hoặc degludec — hoặc insulin human NPH, tùy thuộc vào chính sách của địa phương) với liều 0,25 đơn vị / kg tiêm dưới da mỗi ngày một lần để giảm nhiễm ceton dội lại (rebound ketosis) khi họ được ngừng FRIII. 62

    6. 6–12 giờ

    6.1 Mục tiêu

    Mục đích trong khoảng thời gian này là thực hiện những điều sau:

    • Đảm bảo rằng các thông số lâm sàng và sinh hóa đang được cải thiện ở tốc độ chính xác
    • Tiếp tục bù dịch IV
    • Tiếp tục sử dụng insulin
    • Đánh giá các biến chứng của điều trị, ví dụ, quá tải dịch, phù não
    • Tiếp tục xử lý các yếu tố thúc đẩy khi cần thiết
    • Tránh hạ đường huyết
    • Xem xét chuyển đến môi trường chăm sóc Cấp 2 (HDU) nếu đáp ứng các tiêu chí về mức độ nghiêm trọng mặc dù đã được điều trị đầy đủ, hoặc nếu tình trạng lâm sàng xấu đi hoặc nếu không có sẵn các phương tiện để theo dõi chuyên sâu

    6.2 Hành động 1 — Đánh giá lại bệnh nhân và theo dõi các dấu hiệu quan trọng

    • Nếu BN không cải thiện như mong đợi, hãy tìm lời khuyên sớm của chuyên gia
    • Thường xuyên đánh giá thang điểm Hôn mê Glasgow, nếu điểm này giảm xuống thì nên xem xét chụp hình ảnh não khẩn cấp
    • Đảm bảo đã được giới thiệu đến nhóm chuyên gia về bệnh đái tháo đường
    • Xem xét chuyển đến môi trường chăm sóc Cấp 2 (HDU) nếu đáp ứng các tiêu chí về mức độ nghiêm trọng hoặc nếu không có sẵn các phương tiện để giám sát chuyên sâu

    6.3 Hành động 2 — Xem xét các thông số sinh hóa và chuyển hóa

    • Vào thời điểm 6 giờ, kiểm tra pH tĩnh mạch, bicarbonate, kali, cũng như ceton và glucose máu
    • Sự khỏi nhiễm toan ceton được định nghĩa là ceton dưới 0,6 mmol / L và pH tĩnh mạch trên 7,3 (không sử dụng bicarbonate như một chất thay thế ở giai đoạn này vì tình trạng nhiễm toan tăng clo máu kết hợp với lượng lớn natri clorua 0,9% sẽ làm giảm mức bicarbonate)

    Nếu tình trạng nhiễm toan ceton đã được giải quyết, hãy chuyển đến phần E.

    Nếu tình trạng nhiễm toan ceton vẫn chưa được giải quyết, hãy tham khảo Hành động 2 trong Phần B.

    7. 12–24 giờ

    7.1 Kỳ vọng

    Đến 24 giờ, tình trạng nhiễm ceton máu và toan máu đã được giải quyết ở hầu hết mọi BN 45

    7.2 Mục tiêu

    • Đảm bảo rằng các thông số lâm sàng và sinh hóa đang được cải thiện hoặc đã bình thường hóa
    • Tiếp tục truyền dịch qua đường tĩnh mạch nếu người bệnh không ăn uống được
    • Nếu BN không ăn uống được và không có ceton máu, hãy chuyển sang VRIII theo hướng dẫn của địa phương hoặc theo guideline JBDS 63
    • Đánh giá lại các biến chứng của điều trị, ví dụ, quá tải dịch
    • Thường xuyên đánh giá thang điểm Hôn mê Glasgow, nếu điểm này giảm xuống thì nên xem xét chụp ảnh não khẩn cấp
    • Tiếp tục xử lý mọi yếu tố thúc đẩy nếu cần
    • Chuyển sang insulin tiêm dưới da nếu bệnh nhân ăn uống bình thường. Đảm bảo rằng insulin tiêm dưới da được bắt đầu trước khi ngừng tiêm insulin. Tốt nhất, hãy tiêm dưới da insulin tác dụng nhanh vào bữa ăn và ngưng insulin IV 30–60 phút sau đó

    7.3 Hành động 1 — Đánh giá lại bệnh nhân và theo dõi các dấu hiệu quan trọng 7.4 Hành động 2 — Xem lại các thông số sinh hóa và chuyển hóa

    • Vào thời điểm 12 giờ, kiểm tra pH tĩnh mạch, bicarbonate, kali, cũng như ceton và glucose trong máu
    • Sự khỏi nhiễm toan ceton được định nghĩa là ceton dưới 0,6 mmol/L và pH tĩnh mạch trên 7,3

    Nếu tình trạng nhiễm toan ceton đã được giải quyết, hãy chuyển đến phần E.

    Nếu tình trạng nhiễm toan ceton vẫn chưa được giải quyết, hãy tham khảo Hành động 2 trong Phần B và tìm kiếm lời khuyên của bác sĩ chuyên khoa cao cấp nếu khẩn cấp.

    7.4.1 Tại sao không thể dựa vào bicacbonat để đánh giá sự khỏi của DKA

    Không đơn độc dựa vào bicarbonat để đánh giá khả năng phân giải nhiễm toan ceton tại thời điểm này do có thể tăng clo máu thứ phát do lượng thể tích cao của dung dịch natri clorid 0,9% cũng chứa kali clorid. Nhiễm toan chuyển hóa tăng clo máu sẽ làm giảm bicarbonat và do đó dẫn đến khó khăn trong việc đánh giá liệu nhiễm ceton đã hết chưa. Nhiễm toan tăng clo máu có thể gây co mạch thận và là nguyên nhân gây thiểu niệu.

    7.4.2 Kỳ vọng

    Những người bị nhiễm toan ceton nên ăn uống và trở lại chế độ insulin bình thường của họ. Nếu kỳ vọng này không được đáp ứng trong khoảng thời gian này, điều quan trọng là phải xác định và điều trị các lý do không đáp ứng với điều trị — ví dụ, viêm dạ dày. Điều bất thường là nhiễm toan ceton không được giải quyết về mặt sinh hóa sau 24 giờ với phương pháp điều trị thích hợp và nếu gặp phải, cần có ý kiến của bác sĩ chuyên khoa đái tháo đường cấp cao.

    7,5 E. Chuyển đổi thành insulin dưới da

    BN nên được chuyển sang chế độ tiêm dưới da thích hợp khi sinh hóa ổn định (ceton máu dưới 0,6 mmol / L, pH trên 7,3) và họ đã sẵn sàng và có thể ăn được. 63 Việc chuyển đổi thành insulin tiêm dưới da được quản lý lý tưởng bởi nhóm chuyên gia đái tháo đường. Nếu nhóm này không có mặt, hãy xem Phụ lục 1 . Nếu BN mới được chẩn đoán, điều cần thiết là họ phải được một thành viên của nhóm chuyên gia khám trước khi xuất viện.

    7.6 Tham gia của nhóm chuyên gia đái tháo đường

    Nếu họ chưa tham gia, thì họ nên được thông báo và BN được đánh giá trong vòng 24 giờ sau khi nhập viện. Sự tham gia của nhóm chuyên gia đái tháo đường là quan trọng để cho phép giáo dục lại, giảm nguy cơ tái phát và tạo điều kiện theo dõi thích hợp. Các bệnh viện nên tạo điều kiện cho các nhóm điều trị bệnh đái tháo đường cung cấp điều trị đầy đủ để cho phép bất kỳ ai nhập viện vì nhiễm toan ceton đều được đánh giá trong vòng 24 giờ sau khi nhập viện.

    8. SINH LÝ BỆNH CỦA NHIỄM TOAN CETON

    Nhiễm toan ceton là một trạng thái chuyển hóa rối loạn phức tạp, đặc trưng bởi tăng đường huyết, tăng ceton huyết và nhiễm toan. Nhiễm toan ceton thường xảy ra do hậu quả của sự thiếu hụt insulin tương đối hoặc tuyệt đối đi kèm với sự gia tăng các hormone điều hòa ngược (ví dụ: glucagon, cortisol, hormone tăng trưởng, catecholamine). Loại mất cân bằng nội tiết tố này làm tăng quá trình tạo glucone ở gan và quá trình phân giải glycogenolysis dẫn đến tăng đường huyết nghiêm trọng. Tăng cường phân giải lipid làm tăng các axit béo tự do trong huyết thanh, sau đó được chuyển hóa như một nguồn năng lượng thay thế trong quá trình tạo ceton.24 Điều này dẫn đến sự tích tụ một lượng lớn các thể ceton và sau đó là nhiễm toan chuyển hóa. Ceton bao gồm aceton, 3-betahydroxybutyrate và acetoacetate. Ceton chủ yếu trong máu là 3-beta-hydroxybutyrate.14 Mô tả chi tiết hơn về sinh lý bệnh của nhiễm toan ceton có sẵn ở những tài liệu khác. 24

    Có một số cơ chế gây ra tình trạng cạn kiệt dịch trong nhiễm toan ceton. Chúng bao gồm bài niệu thẩm thấu do tăng đường huyết, nôn mửa – thường liên quan đến nhiễm toan ceton – và cuối cùng, không thể uống nước do mức độ ý thức giảm. Sự chuyển dịch và suy giảm chất điện giải một phần liên quan đến bài niệu thẩm thấu. Tăng kali máu và hạ kali máu cần được chú ý đặc biệt.

    9. DỊCH TỄ HỌC VÀ CHI PHÍ

    Mặc dù nhiễm toan ceton chủ yếu xảy ra ở những người mắc bệnh đái tháo đường típ 1, khoảng một phần ba trường hợp xảy ra ở những người mắc bệnh đái tháo đường típ 2. 23 , 64 Tuy nhiên, điều trị ban đầu là giống nhau cho cả hai. Tỷ lệ mắc bệnh thực sự rất khó xác định. Ở Vương quốc Anh, tỷ lệ nhiễm toan ceton cao nhất ở những người từ 18 đến 24 tuổi. 23 Các dữ liệu khác đã gợi ý rằng tỷ lệ nhiễm toan ceton dao động trong khoảng 8,0 đến 51,3 trường hợp trên 1000 bệnh nhân-năm ở những người mắc bệnh đái tháo đường típ 1. 65 Tuy nhiên, ở Trung Quốc, tỷ lệ mắc bệnh đã được báo cáo là cao tới 263 trên 1000 bệnh nhân-năm.66 , 67 Nhiễm toan ceton cũng là một tình trạng tốn kém để điều trị. Dữ liệu từ các cuộc khảo sát quốc gia ở Vương quốc Anh cho thấy chi phí cho một đợt ước tính trị giá £ 2064 ở người lớn và £ 1387 ở những người từ 11 đến 18 tuổi. 68 , 69 Điều trị nhiễm toan ceton ở Hoa Kỳ đắt hơn đáng kể với một đợt ước tính trị giá ~ 26.566 đô la. 70

    10. TỬ VONG VÀ TÀN TẬT

    Ở Vương quốc Anh và các quốc gia phát triển khác, trong khi tỷ lệ tử vong do nhiễm toan ceton vẫn < 1%, 45 , 71 thì đây là nguyên nhân tử vong hàng đầu ở những người dưới 58 tuổi mắc bệnh T1DM. 72 Có lẽ không có gì đáng ngạc nhiên khi tỷ lệ tử vong tăng theo tuổi và với sự hiện diện của các bệnh đi kèm từ trước. 73 , 74

    Tỷ lệ tử vong vẫn còn cao, hơn 40% ở một số nước có thu nhập thấp và trung bình.24 Tỷ lệ tử vong cao này cho thấy sự cần thiết của việc chẩn đoán sớm và thực hiện các chương trình phòng ngừa hiệu quả.

    Phù não vẫn là nguyên nhân tử vong phổ biến nhất, đặc biệt ở trẻ nhỏ và thanh thiếu niên. Các nguyên nhân chính gây tử vong ở người trưởng thành bao gồm hạ kali máu nghiêm trọng, hội chứng suy hô hấp ở người lớn và các bệnh đồng mắc, có thể dẫn đến tình trạng nhiễm toan ceton như viêm phổi, nhồi máu cơ tim cấp và nhiễm trùng huyết. 24

    11. TUÂN THỦ CÁC HƯỚNG DẪN

    Các cuộc kiểm tra lặp đi lặp lại của nhiều đơn vị đái tháo đường ở tất cả các quốc gia thuộc Vương quốc Anh đã liên tục chứng tỏ việc tuân thủ kém các hướng dẫn của địa phương (hoặc quốc gia) trong việc quản lý nhiễm toan ceton. Có hai vấn đề chính cần được giải quyết:

    1. Các guidelines phải được thực hiện
    2. Các guidelines phải được kiểm tra — Các tiêu chí đánh giá có thể được tìm thấy trên mạng.

    Các guidelines phải được đánh giá thường xuyên. Đây là một tài liệu ‘trực tiếp’ và phản hồi cho các tác giả được hoan nghênh và khuyến khích.

    PHỤ LỤC 1 Khởi động lại insulin dưới da cho những người đã dùng insulin trước đây

    Chế độ điều trị trước đó của người đó thường nên được bắt đầu lại nếu HbA1c gần đây nhất của họ cho thấy mức độ kiểm soát có thể chấp nhận được, nghĩa là HbA1c < 64 mmol / mmol (< 8,0%) 63

    Với tất cả các phác đồ, không nên ngừng truyền insulin tĩnh mạch ít nhất 30–60 phút sau khi tiêm liều dưới da cùng với bữa ăn.

    Nếu họ đang sử dụng insulin nền bolus

    • Nên có sự chồng lấp/gối đầu (overlap) giữa insulin truyền và lần tiêm insulin tác dụng nhanh đầu tiên. Insulin tác dụng nhanh nên được tiêm cùng bữa ăn và ngừng truyền insulin và dịch tĩnh mạch 30–60 phút sau đó
    • Nếu người đó trước đó đã sử dụng insulin tác dụng dài như glargine, degludec, detemir hoặc human isophane, thì điều này nên được tiếp tục và do đó, hành động duy nhất là bắt đầu lại insulin tác dụng ngắn bình thường của họ vào bữa ăn tiếp theo.
    • Nếu insulin nền đã bị dừng do nhầm lẫn, không nên ngừng truyền insulin cho đến khi một số dạng insulin nền đã được tiêm. Nếu insulin nền thường được dùng một lần mỗi ngày vào buổi tối và ý định là chuyển thành insulin dưới da vào buổi sáng, hãy cho một nửa liều insulin nền hàng ngày thông thường như isophane (tức là Insulatard ® , Humulin I ® , Insuman basal ® ) vào buổi sáng. Điều này sẽ cung cấp insulin nền cần thiết cho đến khi insulin analogue tác dụng kéo dài có thể được bắt đầu lại. Kiểm tra nồng độ ceton và glucose máu thường xuyên

    Nếu họ sử dụng insulin hỗn hợp cố định hai lần mỗi ngày

    • Tiêm lại insulin dưới da trước bữa ăn sáng hoặc trước bữa ăn tối. Không thay đổi bất kỳ thời điểm nào khác. Duy trì truyền insulin trong 30–60 phút sau khi tiêm insulin dưới da

    Nếu họ đang sử dụng CSII (continous subcutaneous insulin infusion : insulin dưới da truyền liên tục)

    • Đảm bảo sự sẵn có của các nguồn cung cấp / và hoặc vật tư tiêu hao cần thiết
    • Đảm bảo rằng cá nhân đã được đánh giá là có thể sử dụng CSII
    • Nếu họ được cho là có thể sử dụng máy bơm, hãy đề xuất CSII ở tốc độ cơ bản thông thường. Tiếp tục truyền insulin tĩnh mạch cho đến khi bolus bữa ăn được cho. Không bắt đầu lại CSII vào thời điểm trước khi đi ngủ

    Tính liều insulin tiêm dưới da ở những người chưa từng sử dụng insulin

    Ước tính tổng liều insulin hàng ngày

    Ước tính này dựa trên một số yếu tố, bao gồm độ nhạy cảm của BN với insulin, mức độ kiểm soát đường huyết, kháng insulin, cân nặng và tuổi tác. TDD có thể được tính bằng cách nhân trọng lượng của bệnh nhân (tính bằng kg) với 0,5–0,75 đơn vị. Sử dụng 0,75 đơn vị / kg cho những người được cho là kháng insulin nhiều hơn, đó là thanh thiếu niên, béo phì.

    Thí dụ:

    Một người nặng 72 kg sẽ cần khoảng 72 × 0,5 đơn vị hoặc 36 đơn vị trong 24 giờ.

    Tính toán liều bolus nền (QDS)

    Phác đồ

    Cho 50% tổng liều vào bữa ăn tối dưới dạng insulin tác dụng kéo dài, và chia đều liều còn lại cho trước bữa ăn sáng, trước bữa ăn trưa và trước bữa ăn tối.

    Tính toán liều bolus nền (QDS)
    Tính toán liều bolus nền (QDS)

    Nên dùng liều insulin dưới da tác dụng nhanh đầu tiên trước bữa ăn sáng hoặc bữa trưa.

    Chỉ dùng liều đầu tiên trước bữa ăn tối nếu có thể đảm bảo việc theo dõi thích hợp. Không chuyển đổi sang chế độ tiêm dưới da vào thời điểm trước khi đi ngủ.

    Đối với những người mới điều trị bằng insulin, nhu cầu về liều lượng có thể giảm trong vòng vài ngày vì tình trạng kháng insulin liên quan đến nhiễm toan ceton đã hết. Cần có sự giám sát chặt chẽ của nhóm chuyên gia về bệnh đái tháo đường.

    Tính toán chế độ hai lần mỗi ngày (BD):

    Nếu sử dụng chế độ insulin trộn sẵn hai lần mỗi ngày, hãy cho hai phần ba tổng liều hàng ngày vào bữa sáng, phần ba còn lại dùng vào bữa ăn tối.

    TÀI LIỆU THAM KHẢO

    1. Kitabchi AE, Umpierrez GE, Miles JM, Fisher JN. Hyperglycemic crises in adult patients with diabetes. Diabetes Care. 2009; 32: 1335- 1343.
    2. Dhatariya KK, Umpierrez GE. Guidelines for management of diabetic ketoacidosis: time to revise? Lancet Diabetes Endocrinol. 2017; 5: 321- 323.
    3. Dhatariya K, Nunney I, Iceton G. Institutional factors in the management of adults with diabetic ketoacidosis in the UK: results of a national survey. Diabet Med. 2016; 33: 269- 270.
    4. NHS Digital. National Diabetes Inpatient Audit (NaDIA) – 2019, 2020. Available from https://digital.nhs.uk/data-and-information/publications/statistical/nationaldiabetes-inpatient-audit/2019 [Last accessed 22nd December 2021]
    5. Diabetes UK. Diabetes inpatient and hospital care: making hospitals for people with diabetes. 2018.
    6. Peters AL, Buschur EO, Buse JB, Cohan P, Diner JC, Hirsch IB. Euglycemic diabetic ketoacidosis: a potential complication of treatment with sodium-glucose cotransporter 2 inhibition. Diabetes Care. 2015; 38: 1687- 1693.
    7. Macfarlane J, Dhatariya K. The incidence of euglycemic diabetic ketoacidosis in adults with type 1 diabetes in the UK prior to the widespread use of sodium glucose cotransporter 2 inhibitors. Mayo Clin Proc. 2019; 94: 1909- 1910.
    8. Janssens B, Caerels S, Mathieu C. SGLT inhibitors in type 1 diabetes: weighing efficacy and side effects. Ther Adv Endocrinol Metab. 2020; 11:2042018820938545.
    9. Dhatariya KK. Defining and characterising diabetic ketoacidosis in adults. Diabetes Res Clin Pract. 2019; 155:107797.
    10. Smiley D, Chandra P, Umpierrez GE. Update on diagnosis, pathogenesis and management of ketosis-prone Type 2 diabetes mellitus. Diabetes Manag

    (Lond). 2011; 1: 589- 600.

    1. Umpierrez GE, DiGirolamo M, Tuvlin JA, Isaacs SD, Bhoola SM, Kokko JP. Differences in metabolic and hormonal milieu in diabetic- and alcohol-induced ketoacidosis. J Crit Care. 2000; 15: 52- 59.
    2. Sherwood LM, Parris EE, Cahill GF. Starvation in man. N Engl J

    Med. 1970; 282: 668- 675.

    1. Kamel KS, Lin SH, Cheema-Dhadli S, Marliss EB, Halperin ML. Prolonged total fasting: a feast for the integrative physiologist. Kidney Int. 1998; 53: 531- 539.
    2. Dhatariya K. Blood ketones – measurement, interpretation, limitations and utility in the management of diabetic ketoacidosis. Rev Diabet Stud. 2016; 13: 217- 225.
    3. Misra S, Oliver NS. Utility of ketone measurement in the prevention, diagnosis and management of diabetic ketoacidosis. Diabet Med. 2015; 32: 14- 23.
    4. Chauvin A, Javaud N, Ghazali A, et al. Reducing pain by using venous blood gas instead of arterial blood gas (VEINART): a multicentre randomised controlled trial. Emerg Med J. 2020; 37: 756- 761.
    5. Herrington WG, Nye HJ, Hammersley MS, Watkinson PJ. Are arterial and venous samples clinically equivalent for the estimation of pH, serum bicarbonate and potassium concentration in critically ill patients? Diabet Med. 2012; 29: 32- 35.
    6. Malatesha G, Singh NK, Bharija A, Rehani B, Goel A. Comparison of arterial and venous pH, bicarbonate, pCO2 and pO2 in initial emergency department assessment. Emerg Med J. 2007; 24: 569- 571.
    7. Levetan CS, Salas JR, Wilets IF, Zumoff B. Impact of endocrine and diabetes team consultation on hospital length of stay for patients with diabetes. Am J Med. 1995; 99: 22- 28.
    8. Sampson MJ, Crowle T, Dhatariya K, et al. Trends in bed occupancy for inpatients with diabetes before and after the introduction of a diabetes inpatient specialist nurse service. Diabet Med. 2006; 23: 1008- 1015.
    9. NHS Improvement. 2019/20 National Tariff Payment System – A consultation notice: Annex DtD. Guidance on best practice tariffs. 2019. Available

    from https://improvement.nhs.uk/documents/484/Annex_DtD_Best_practice_tariffs.pdf [Last accessed 22nd December 2021]

    1. Price H, Thomsett K, Newton I, Alderson S, Hillson R. Developing best practice tariffs for diabetic ketoacidosis and hypoglycaemia. Pract Diabetes. 2013; 30: 6- 8.
    2. Zhong VW, Juhaeri J, Mayer-Davis EJ. Trends in hospital admission for diabetic ketoacidosis in adults with type 1 and type 2 diabetes in England, 1998–2013: a retrospective cohort study. Diabetes Care. 2018; 41: 1870- 1877.
    3. Dhatariya KK, Glaser NS, Codner E, Umpierrez GE. Diabetic Ketoacidosis. Nat Rev Dis Primers. 2020; 6: 40.
    4. Garrett C, Moulton CD, Choudhary P, Amiel S, Fonagy P, Ismail K. The psychopathology of recurrent diabetic ketoacidosis: a case-control study. Diabet Med. 2021; 38:e14505.
    5. Lacy ME, Gilsanz P, Eng CW, Beeri MS, Karter AJ, Whitmer RA. Recurrent diabetic ketoacidosis and cognitive function among older adults with type 1 diabetes: findings from the Study of Longevity in Diabetes. BMJ Open Diabetes Res

    Care. 2020; 8:e001173.

    1. Mays JA, Jackson KL, Derby TA, et al. An evaluation of recurrent diabetic ketoacidosis, fragmentation of care, and mortality across Chicago, Illinois. Diabetes Care. 2016; 39: 1671- 1676.
    2. Dhatariya KK, Vellanki P. Treatment of diabetic ketoacidosis (DKA) / hyperglycemic hyperosmolar state (HHS): novel advances in the management of hyperglycemic crises (UK versus US). Curr DiabRep. 2017; 17: 33- 39.
    3. Nallasamy K, Jayashree M, Singhi S, Bansal A. Low-dose vs standard-dose insulin in pediatric diabetic ketoacidosis: a randomized clinical trial. JAMA

    Pediatr. 2014; 168: 999- 1005.

    1. Puttha R, Cooke D, Subbarayan A, et al. Low dose (0.05 units/kg/h) is comparable with standard dose (0.1 units/kg/h) intravenous insulin infusion for the initial treatment of diabetic ketoacidosis in children with type 1 diabetes—an observational study. Pediat Diabetes. 2010; 11: 12- 17.
    2. Al Hanshi S, Shann F. Insulin infused at 0.05 versus 0.1 units/kg/hr in children admitted to intensive care with diabetic ketoacidosis. Pediatr Crit Care Med. 2011; 12: 137- 140.
    3. BSPED Guideline for the management of children and young people under the age of 18 years with diabetic ketoacidosis. 2021. Available from https://www.bsped.org.uk/clinical-resources/bsped-dka-guidelines/ [Last accessed 20th February 2022]
    4. Perel P, Roberts I, Ker K. Colloids versus crystalloids for fluid resuscitation in critically ill patients. Cochrane Database Syst

    Rev. 2013. https://doi.org/10.1002/14651858.cd000567.pub6

    1. Reinhart K, Perner A, Sprung CL, et al. Consensus statement of the ESICM task force on colloid volume therapy in critically ill patients. Intensive Care Med. 2013; 38: 368- 383.
    2. Dhatariya KK. Diabetic ketoacidosis. BMJ. 2007; 334: 1284- 1285.
    3. Mahler SA, Conrad SA, Wang H, Arnold TC. Resuscitation with balanced electrolyte solution prevents hyperchloremic metabolic acidosis in patients with diabetic ketoacidosis. Am J Emerg Med. 2011; 29: 670- 674.
    4. Van Zyl DG, Rheeder P, Delport E. Fluid management in diabetic-acidosis – Ringer’s lactate versus normal saline: a randomized controlled trial. QJM. 2012; 105: 337- 343.
    5. Self WH, Evans CS, Jenkins CA, et al. Clinical effects of balanced crystalloids vs saline in adults with diabetic ketoacidosis: a subgroup analysis of cluster randomized clinical trials. JAMA Network Open. 2020; 3:e2024596.
    6. Gershkovich B, English SW, Doyle MA, Menon K, McIntyre L. Choice of crystalloid fluid in the treatment of hyperglycemic emergencies: a systematic review protocol. Syst Rev. 2019; 8: 228.
    7. Kuppermann N, Ghetti S, Schunk JE, et al. Clinical trial of fluid infusion rates for pediatric diabetic ketoacidosis. N Engl J Med. 2018; 378: 2275- 2287.
    8. Azova S, Rapaport R, Wolfsdorf J. Brain injury in children with diabetic ketoacidosis: review of the literature and a proposed pathophysiologic pathway for the development of cerebral edema. Pediatr Diabetes. 2021; 22: 148- 160.
    9. Morris LR, Murphy MB, Kitabchi AE. Bicarbonate therapy in severe diabetic ketoacidosis. Ann Intern Med. 1986; 105: 836- 840.
    10. Hale PJ, Crase JE, Nattrass M. Metabolic effects of bicarbonate in the treatment of diabetic ketoacidosis. BMJ. 1984; 290: 1035- 1038.
    11. Chua HR, Schneider A, Bellomo R. Bicarbonate in diabetic ketoacidosis – a systematic review. Ann Intensive Care. 2011; 1(1):23.
    12. Dhatariya KK, Nunney I, Higgins K, Sampson MJ, Iceton G. A national survey of the management of diabetic ketoacidosis in the UK in 2014. Diabet Med. 2016; 33: 252- 260.
    13. Liu PY, Jeng CY. Severe hypophosphatemia in a patient with diabetic ketoacidosis and acute respiratory failure. J Chin Med Assoc. 2013; 67: 355- 359.
    14. Wilson HK, Keuer SP, Lea AS, Boyd A, Eknoyan G. Phosphate therapy in diabetic ketoacidosis. Arch Intern Med. 1982; 142: 517- 520.
    15. Page MM, Alberti KGMM, Greenwood R, et al. Treatment of diabetic coma with continuous low-dose infusion of insulin. BMJ. 1974; 2: 687- 690.
    16. Semple PF, White C, Manderson WG. Continuous intravenous infusion of small doses of insulin in treatment of diabetic ketoacidosis. BMJ. 1974; 2: 694- 698.
    17. National Patient Safety Agency. Potassium solutions: risks to patients from errors occurring during intravenous administration. 2002
    18. NHS Improvement. Never Events list 2018. 2018. Available from https://improvement.nhs.uk/documents/2899/Never_Events_list_2018_FINAL_v7. pdf [Last accessed 22nd December 2021]
    19. Lake A, Arthur A, Byrne C, Davenport K, Yamamoto JM, Murphy HR. The effect of hypoglycaemia during hospital admission on health-related outcomes for people with diabetes: a systematic review and meta-analysis. Diabet Med. 2019; 36: 1349- 1359.
    20. Rosenbloom AL. Intracerebral crises during treatment of diabetic ketoacidosis. Diabetes Care. 1990; 13: 22- 33.
    21. Tzamaloukas AH, Ing TS, Siamopoulos KC, et al. Body fluid abnormalities in severe hyperglycemia in patients on chronic dialysis: review of published reports. J Diabetes Complications. 2008; 22: 29- 37.
    22. Kuverji A, Higgins K, Burton JO, Frankel AH, Cheung CK. Diabetic ketoacidosis in people on maintenance haemodialysis: case reports and review of literature. Br J Diabetes. 2020; 20: 89- 95.
    23. Seddik AA, Bashier A, Alhadari AK, et al. Challenges in management of diabetic ketoacidosis in hemodialysis patients, case presentation and review of literature. Diabetes Metab Syndr. 2019; 13: 2481- 2487.
    24. Nakao T, Inaba M, Abe M, et al. Best practice for diabetic patients on hemodialysis 2012. Ther Apher Dial. 2015; 19: 40- 66.
    25. Galindo RJ, Pasquel FJ, Vellanki P, et al. Biochemical parameters of diabetes ketoacidosis in patients with end-stage kidney disease and preserved renal function. J Clin Endocrinol Metab. 2021; 106: e2673- e2679.
    26. Flanagan D, Moore E, Baker S, Wright D, Lynch P. Diabetes care in hospital – the impact of a dedicated inpatient care team. Diabet Med. 2008; 25: 147- 151.
    27. National Institute of Health and Care Excellence. Acutely ill patients in hospital

    (CG50). 2007. Available from http://www.nice.org.uk/CG50 [Last accessed 22nd December 2021]

    1. National Institute of Health and Care Excellence. Venous thromboembolism in over 16s: reducing the risk of hospital-acquired deep vein thrombosis or pulmonary embolism. NG89. 2019. Available from https://www.nice.org.uk/guidance/ng89 [Last accessed 22nd December 2021]
    2. Hsia E, Seggelke S, Gibbs J, et al. Subcutaneous administration of glargine to diabetic patients receiving insulin infusion prevents rebound hyperglycemia. J Clin Endocrinol Metab. 2012; 97: 3132- 3137.
    3. George S, Dale J, Stanisstreet D. A guideline for the use of variable rate intravenous insulin infusion in medical inpatients. Diabet Med. 2015; 32: 706- 713.
    4. Vellanki P, Umpierrez GE. Diabetic ketoacidosis: a common debut of diabetes among African Americans with type 2 diabetes. Endocr Pract. 2017; 23: 971- 978.
    5. Diaz-Valencia PA, Bougneres P, Valleron AJ. Global epidemiology of type 1 diabetes in young adults and adults: a systematic review. BMC Public Health. 2015; 15: 255.
    6. Li J, Yang D, Yan J, Huang B, Zhang Y, Weng J. Secondary diabetic ketoacidosis and severe hypoglycaemia in patients with established type 1 diabetes mellitus in China: a multicentre registration study. Diabetes Metab Res Rev. 2014; 30: 497- 504.
    7. Farsani SF, Brodovicz K, Soleymanlou N, Marquard J, Wissinger E, Maiese BA. Incidence and prevalence of diabetic ketoacidosis (DKA) among adults with type 1 diabetes mellitus (T1D): a systematic literature review. BMJ Open. 2017; 7:e016587.
    8. Dhatariya KK, Skedgel C, Fordham R. The cost of treating diabetic ketoacidosis in the UK: a national survey of hospital resource use. Diabet Med. 2017; 34: 1361- 1366.
    9. Dhatariya KK, Parsekar K, Skedgel C, Datta V, Hill P, Fordham R. The cost of treating diabetic ketoacidosis in an adolescent population in the UK: a national survey of hospital resource use. Diabet Med. 2019; 36: 982- 987.
    10. Desai D, Mehta D, Mathias P, Menon G, Schubart UK. Health care utilization and burden of diabetic ketoacidosis in the U.S. over the past decade: a nationwide analysis. Diabetes Care. 2018; 41: 1631- 1638.
    11. Benoit SR, Zhang Y, Geiss LS, Gregg EW, Albright A. Trends in diabetic ketoacidosis hospitalizations and in-hospital mortality – United States, 2000–2014. Morb Mortal Wkly Rep. 2018; 67: 362- 365.
    12. Gibb FW, Teoh WL, Graham J, Lockman KA. Risk of death following admission to a UK hospital with diabetic ketoacidosis. Diabetologia. 2016; 59: 2082- 2087.
    13. Azevedo LC, Choi H, Simmonds K, Davidow J, Bagshaw SM. Incidence and long-term outcomes of critically ill adult patients with moderate-to-severe diabetic ketoacidosis: retrospective matched cohort study. J Crit Care. 2014; 29: 971- 977.
    14. Umpierrez G, Korytkowski M. Diabetic emergencies – ketoacidosis, hyperglycaemic hyperosmolar state and hypoglycaemia. Nat Rev Endocrinol. 2016; 12: 222- 232.

     

  • Thuốc biệt dược Zonbic ( Ornidazole)

    Thuốc biệt dược Zonbic ( Ornidazole)

    Zonbic

    Hãng sản xuất Zonbic ( Ornidazole) 

    ACI Pharma

    Thành phần Zonbic ( Ornidazole) 

    Ornidazole

    Dạng bào chế

    Viên nén bao phim 500mg x hộp chứa 5 vỉ x 6 viên

    Dược học Zonbic ( Ornidazole) 

    Ornidazole là 1dẫn chất 5-nitroimidazol chứa nhóm 5-nitro bị khử ở bên trong nhân vi khuẩn nhằm làm suy yếu chức năng DNA. Ornidazole là 1dẫn chất 5-nitroimidazol chứa nhóm 5-nitro bị khử ở bên trong nhân vi khuẩn nhằm làm suy yếu chức năng DNA. Zonbic được chỉ định trong trường hợp nhiễm amip (ruột và gan), nhiễm Giardia, nhiễmTrichomonas,nhiễm khuẩn âm đạo, nhiễm khuẩn kỵ khí nhạy cảm

    Chỉ định Zonbic ( Ornidazole) 

    Nhiễm amip (ruột và gan)

    Nhiễm Giardia

    Nhiễm Trichomonas

    Nhiễm khuẩn âm đạo

    Điều trị nhiễm khuẩn kỵ khí nhạy cảm

    Liều lượng và cách dùng Zonbic ( Ornidazole) 

    Nhiễm amip:

    É Người lớn : 500mg x 2lần /ngày,trong 5-10ngày

    É Trẻ em: 25mg/kg trọng lượng cơ thể ,1 lần/ngày, trong 5-10ngày

    Lỵ amip:

    É Người lớn: 1,5g 1l ần/ngày,trong 3ngày

    É Trẻ em: 40mg/kg trọng lượng cơ thể, 1lần/ngày,trong 3ngày

    Nhiễm Giardia:

    É Người lớn:1-1,5mg, 1 lần trong ngày,trong 1-2ngày

    É Trẻ em:40mg/kg trọng lượng cơ thể,1lần trong ngày, trong 1-2 ngày Nhiễm Trichomonas: 1,5mg 1 lần hay 500mg x 2 lần/ngày, trong 5ngày.

    Nhiễm khuẩn âm đạo: 3viên 500mg cho 1 liều duy nhất hay 1 viên 500mg x 1 lần /ngày ,trong 5-7 ngày

    Chống chỉ định:

    Tiền căn nhạy cảm với Ornidazole và các nitroimidazole khác.Onidazole bị chống chỉ định trong rối loạn hệ thần kinh trung ương , đặc biệt động kinh và trong bệnh thần kinh ngoại vi.

    Thận trọng :

    Phụ nữ có thai và cho con bú.

    Thận trọng với những bệnh nhận mất điều hòa,chóng mặt,rối loạn tâm thần.Khi điều trị kéo dài với Ornidazole,chứng thể trạng kém về máu như sự giảm bạch cầu nhẹ ít được báo cáo.Trong trường hợp sự giảm bạch cầu xảy ra,quyết định ngưng điều trị phụ thuộc vào mức độ trầm trọng của nhiễm trùng.

    Phản ứng phụ:

    Phản ứng phụ của ornidazole được giới hạn ở ống tiêu hóa(buồn nôn, nôn mửa, đau vùng thượng vị)và hệ thần kinh trung ương (chóng mặt ,nhức đầu,mệt mổi). Không giống như những nitroimidazole khác,Ornidazole không tương tác với rượu,mặc dù cần nghiên cứu hơn nữa đặc tính này.

    Sự giảm bạch cầu đôi khi xảy ra trong thời gian điều trị.Phản ứng phụ ở hệ thần kinh trung ương của Onidazole bao gồm chủ yếu nhức đầu,chóng mặt,mệt mỏi hay buồn ngủ,suy nhược. Phản ứng phụ của Ornidazole trên hệ thần kinh trung ương có thể ít hơn

    Metronidazole. Co giật chưa được báo cáo trong những nghiên cứu tính đến nay.

    Tương tác thuốc:

    Như những Imidazole khác, Zonbic (Ornidozole) có tiềm năng gây phản ứng giống Disulfiram

    Việc sử dụng đồng thời các chất chống đông đường uống có thể gia tăng nguy cơ xuất huyết do chuyển hóa ở gan giảm.

    Ornidazole được báo cáo làm giảm sự thanh thải của 5-fluorouracil

     

     

  • Thuốc biệt dược Fasigyne ( Tinidazole)

    Thuốc biệt dược Fasigyne ( Tinidazole)

    Fasigyne

    Hãng xản xuất

    Pfizer

    Phân phối

    Zuellig Pharma

    Thành phần

    Tinidazole

    Dạng bào chế

    Viên nén 500 mg : hộp 4 viên

    Biệt dược khác

    Poltini (Polpharma) viên nén 500mg

    Dược lực

    Fasigyne có thành phần hoạt chất tinidazole là một dẫn xuất thay thế của hợp chất imidazole có tác động kháng nguyên sinh động vật và kháng vi khuẩn kỵ khí. Cơ chế tác động của Fasigyne chống lại vi khuẩn kỵ khí và động vật đơn bào là do thuốc xâm nhập vào tế bào vi sinh vật và gây tổn hại trên các chuỗi ADN hay ức chế sự tổng hợp của chúng.

    Tinidazole có hoạt tính trên cả nguyên sinh động vật và vi khuẩn kỵ khí bắt buộc. Tác động kháng động vật nguyên sinh bao gồm

    Trichomonas vaginalis, Entamoeba histolytica và Giardia lamblia.

    Tinidazole có hoạt tính chống lại Gardnerella vaginalis và hầu hết các vi khuẩn kỵ khí bao gồm: Bacteroides fragilis, Bacteroides melaninogenicus, Bacteroides spp., Clostridium spp., Eubacterium spp., Fusobacterium spp., Peptococcus spp., Peptostreptococcus spp., và Veillonella spp.

    Dược động học

    Fasigyne được hấp thu nhanh chóng và hoàn toàn sau khi uống. Trong nghiên cứu ở người tình nguyện khỏe mạnh được cho uống 2 g tinidazole, nồng độ đỉnh trong huyết thanh trong khoảng 40-51 mcg/ml đạt được trong vòng 2 giờ và giảm dần cho đến 11-19 mcg/ml sau 24 giờ.

    Khi tiêm tĩnh mạch cho người tình nguyện khỏe mạnh dùng 800 mg và 1,6 g tinidazole trong vòng 10-15 phút, nồng độ đỉnh trong huyết tương từ 14-21 mcg/ml với liều 800 mg và trung bình 32 mcg/ml với liều 1,6 g. 24 giờ sau khi tiêm truyền, nồng độ tinidazole trong huyết tương giảm lần lượt là 4-5 mcg/ml và 8,6 mcg/ml cho thấy thuốc có thể sử dụng một lần duy nhất trong ngày.

    Nồng độ trong huyết tương giảm chậm và tinidazole có thể được tìm thấy trong huyết tương vào giờ thứ 72 sau khi tiêm truyền và uống với nồng độ lần lượt là 0,05 mcg/ml và đến 1 mcg/ml. Thời gian bán thải trong huyết tương của tindazole khoảng 12-14 giờ.

    Tinidazole được phân phối rộng rãi trong tất cả các mô cơ thể, đi qua được hàng rào máu não và đạt tới nồng độ hữu hiệu trên lâm sàng ở tất cả các mô. Thể tích phân bố đo được vào khoảng 50 lít. Khoảng 12% tinidazole trong huyết tương gắn kết với proteine huyết tương. Tinidazole được đào thải qua gan và thận. Các nghiên cứu trên bệnh nhân khỏe mạnh cho thấy rằng trong vòng 5 ngày, 60-65% liều sử dụng được đào thải qua thận với 25% dưới dạng không đổi. Khoảng 12% liều dùng được đào thải qua phân.

    Các nghiên cứu trên bệnh nhân suy thận (thanh thải creatinine < 22 ml/phút) cho thấy rằng không có sự thay đổi đáng kể có ý nghĩa thống kê trên những thông số dược động học của tinidazole. Do đó, không cần điều chỉnh liều lượng cho các bệnh nhân suy thận. Chỉ định

    Dự phòng :

    Ngăn ngừa nhiễm khuẩn sau phẫu thuật do vi khuẩn kỵ khí, đặc biệt là những nhiễm khuẩn sau phẫu thuật đại tràng, tiêu hóa và phụ khoa.

    Điều trị những nhiễm khuẩn sau :

    Nhiễm khuẩn kỵ khí như :

    • nhiễm khuẩn trong phúc mạc : viêm phúc mạc, áp-xe.
    • nhiễm khuẩn phụ khoa : viêm nội mạc tử cung, viêm cơ tử cung, áp-xe tử cung-buồng trứng.
    • nhiễm khuẩn huyết.
    • nhiễm khuẩn sau phẫu thuật.
    • nhiễm khuẩn da và mô mềm.
    • nhiễm khuẩn đường hô hấp trên và dưới : viêm phổi, viêm mủ màng phổi, áp-xe phổi.

    Viêm âm đạo không đặc hiệu.

    Viêm loét lợi cấp tính.

    Bệnh Trichomonas đường niệu dục ở cả nam lẫn nữ.

    Bệnh Giardia.

    Bệnh amip ruột.

    Bệnh amip gan.

    Chống chỉ định

    Fasigyne chống chỉ định trong ba tháng đầu tiên của thai kỳ, bà mẹ đang cho con bú, những bệnh nhân có rối loạn thần kinh thực thể và những bệnh nhân có quá mẫn đã biết với bất kỳ thành phần nào của thuốc. Giống như các thuốc có cấu trúc tương tự khác, Fasigyne cũng chống chỉ định ở bệnh nhân có tiền sử hay có rối loạn tạo máu, mặc dù không ghi nhận được bất thường về huyết học kéo dài nào trên lâm sàng cũng như trong nghiên cứu trên thú vật với tinidazole.

    Chú ý đề phòng và thận trọng lúc dùng

    Giống như những thuốc cùng nhóm, nên tránh dùng rượu trong khi điều trị với Fasigyne do có khả năng phản ứng dạng disulfiram (bừng mặt, co thắt bụng, nôn ói, nhịp tim nhanh).

    Các thuốc có cùng cấu trúc hóa học với Fasigyne thường đi kèm với các rối loạn thần kinh khác nhau như chóng mặt, choáng váng, mất điều hòa, bệnh thần kinh ngoại biên và hiếm khi gây co giật. Nên ngưng thuốc nếu có bất kỳ dấu hiệu thần kinh bất thường nào trong quá trình trị liệu với Fasigyne. Lúc có thai và lúc nuôi con bú

    Lúc có thai :

    Các nghiên cứu trên khả năng sinh sản ở chuột được cho dùng tinidazole 100 hay 300 mg/kg không có ảnh hưởng nào trên khả năng sinh sản, trọng lượng chuột mẹ và chuột con, quá trình sinh nở, sức sống cũng như việc cho con bú. Có một sự gia tăng nhẹ nhưng không đáng kể trong tỷ lệ sẩy thai với liều 300 mg/kg.

    Tinidazole đi qua hàng rào nhau thai. Do không biết được tác động của các hoạt chất thuộc nhóm này, chống chỉ định sử dụng tinidazole trong ba tháng đầu thai kỳ. Không có bằng chứng gây hại của Fasigyne trong các giai đoạn sau của thai kỳ, tuy nhiên cần cân nhắc lợi ích trị liệu và nguy hại có thể xảy ra cho bà mẹ và thai nhi khi sử dụng thuốc trong ba tháng giữa và cuối của thai kỳ.

    Lúc nuôi con bú :

    Tinidazole tiết qua sữa mẹ, hoạt chất có thể tiếp tục tiết ra trong sữa hơn 72 giờ sau khi dùng thuốc. Các bà mẹ không nên cho trẻ bú sữa tối thiểu ba ngày sau khi ngưng Fasigyne.

    Tương tác thuốc

    Rượu có thể gây phản ứng dạng disulfiram và nên tránh dùng cho đến 72 giờ sau khi ngưng Fasigyne (xem Chú ý đề phòng và Thận trọng lúc dùng).

    Tác dụng ngoại ý

    Các tác dụng ngoại ý được báo cáo nói chung là không xảy ra thường xuyên, nhẹ và tự khỏi. Các tác dụng ngoại ý trên đường tiêu hóa bao gồm buồn nôn, nôn mửa, chán ăn, tiêu chảy, lưỡi có vị kim loại và đau bụng.

    Các phản ứng quá mẫn, đôi khi trầm trọng có thể xuất hiện trong những trường hợp hiếm dưới dạng nổi ban da, ngứa ngáy, mề đay và phù mạch thần kinh.

    Các rối loạn thần kinh đi kèm với sự sử dụng Fasigyne bao gồm chóng mặt, choáng váng, mất điều hòa, bệnh thần kinh ngoại vi (dị cảm, rối loạn giác quan, giảm cảm giác) và hiếm khi có co giật.

    Giống như các thuốc tương tự, Fasigyne có thể gây giảm bạch cầu thoáng qua. Các tác dụng phụ hiếm được báo cáo khác là nhức đầu, mệt mỏi, rêu lưỡi và nước tiểu có màu sẩm.

    Liều lượng và cách dùng Liều lượng :

    Ngăn ngừa nhiễm khuẩn hậu phẫu :

    • Người lớn :

    Đường uống : Uống một liều duy nhất 2 g khoảng 12 giờ trước khi phẫu thuật.

    • Trẻ em dưới 12 tuổi :

    Không có dữ liệu cho phép dùng liều dự phòng nhiễm khuẩn kỵ khí ở trẻ dưới 12 tuổi.

    Nhiễm khuẩn vi khuẩn kỵ khí :

    • Người lớn :

    Đường uống : liều khởi đầu 2 g trong ngày đầu tiên sau đó 1g mỗi ngày, dùng một lần duy nhất hay 500 mg hai lần mỗi ngày.

    Điều trị trong 5 hay 6 ngày nói chung là đủ, nhưng cần phải xác định thời gian điều trị qua thăm khám lâm sàng, đặc biệt ở một vài nơi khó loại bỏ nhiễm khuẩn.

    Nên thăm khám lâm sàng cũng như cận lâm sàng thường xuyên nếu thấy cần thiết phải tiếp tục điều trị hơn 7 ngày.

    • Trẻ em dưới 12 tuổi :

    Không có dữ liệu cho phép dùng liều điều trị nhiễm khuẩn kỵ khí ở trẻ dưới 12 tuổi.

    Viêm âm đạo không đặc hiệu :

    • Người lớn :

    Viêm âm đạo không đặc hiệu đã được điều trị thành công với một liều uống duy nhất 2 g. Tỷ lệ lành bệnh cao hơn cũng đã đạt được với liều 2 g uống một lần mỗi ngày trong hai ngày liên tiếp (tổng liều là 4 g).

    Viêm loét lợi cấp :

    • Người lớn :

    Uống liều duy nhất 2 g.

    Bệnh trichomonas đường tiết niệu :

    Khi đã xác định nhiễm khuẩn Trichomonas vaginalis, nên điều trị cùng lúc với người phối ngẫu.

    • Phác đồ được lựa chọn dành cho người lớn :

    Uống một liều duy nhất 2 g.

    • Trẻ em :

    Dùng liều duy nhất 50 đến 75 mg/kg thể trọng. Đôi khi có thể cần phải lặp lại liều này một lần nữa.

    Bệnh Giardia :

    • Người lớn :

    Uống liều duy nhất 2 g mỗi ngày hay một viên 150 mg hai lần mỗi ngày trong 7 ngày.

    • Trẻ em :

    Uống liều duy nhất 50 đến 75 mg/kg thể trọng. Đôi khi có thể cần phải lập lại liều này một lần nữa.

    Amip ruột :

    • Người lớn :

    Dùng liều duy nhất 2 g trong 2 hay 3 ngày hay 600 mg hai lần mỗi ngày trong 5 ngày. Trong một vài trường hợp, khi liều dùng duy nhất mỗi ngày trong 3 ngày không hữu hiệu, có thể tiếp tục điều trị đến sáu ngày. Khi điều trị hai lần mỗi ngày trong 5 ngày không hữu hiệu, có thể tiếp tục điều trị cho đến 10 ngày.

    • Trẻ em :

    Uống một liều đơn 50 đến 60 mg/kg thể trọng mỗi ngày trong ba ngày liên tiếp.

    Amip gan :

    Trong việc điều trị amip gan, cùng với điều trị bằng Fasigyne có thể cần phải hút mủ.

    • Người lớn :

    Đường uống : Tổng liều thay đổi từ 4,5 đến 12 g, tùy theo mức độ tác hại của Entamoeba histolytica.

    Điều trị khởi đầu theo đường uống với liều đơn 1,5 đến 2 g mỗi ngày trong 3 ngày.

    Trong một vài trường hợp, khi điều trị ba ngày không có hiệu lực, có thể tiếp tục điều trị cho đến 6 ngày.

    Có thể dùng theo cách khác là uống 600 mg hai lần mỗi ngày trong 5 ngày. Đôi khi, nếu điều trị ba ngày không có hiệu lực, có thể tiếp tục điều trị cho đến 10 ngày.

    • Trẻ em :

    Uống liều duy nhất 50 đến 60 mg/kg thể trọng mỗi ngày trong 5 ngày liên tiếp.

    Cách dùng :

    Nên uống Fasigyne trong hay sau bữa ăn. Quá liều

    Trong các nghiên cứu ngắn hạn trên chuột nhắt và chuột cống, LD50 lần lượt > 3600 mg/kg và > 2300 mg/kg theo đường uống.

    Dấu hiệu và triệu chứng quá liều :

    Không có báo cáo về quá liều trên người được ghi nhận với Fasygine.

    Điều trị quá liều :

    Không có chất đối kháng đặc hiệu để điều trị quá liều với tinidazole mà chỉ có điều trị triệu chứng và hỗ trợ. Có thể cần phải rửa dạ dày.

    Tinidazole có thể được thẩm phân dễ dàng.

  • Nelson Essentials of Pediatrics 9TH edition 2023

    Có thể là hình ảnh về văn bản cho biết 'Karen J. Marcdante Robert M. Kliegman Abigail M. Schuh NELSON ESSENTIALS OF PEDIATRICS 9TH EDITION INTERNATIONAL EDITION NOT OR SALE U.S, J.K.. EUROPEAN ECONOMIC AREA, CANADA, JAPAN, AUSTRALIA, AND NEW ZEALAND ELSEVIER'

    LINK : https://drive.google.com/file/d/13CYxMNGbANuNoyesDKeQROio-UW6l7Bx/view?fbclid=IwAR0D3xSQCzwC7MBMkt5gGSEtSo-z-zQyuObZQGQeGmvPuuTImD3GMo28ZlQ

    Nelson Essentials of Pediatrics, 9th Edition (2023) là một tài liệu quan trọng trong lĩnh vực nhi khoa. Được biên soạn bởi Karen Marcdante, Robert M. Kliegman và Abigail M. Schuh, cuốn sách này cung cấp những kiến thức cần thiết về nhi khoa mà bạn có thể tin tưởng.

    Tóm tắt:

    • Định dạng đọc dễ hiểu và màu sắc đẹp: Cuốn sách được viết theo định dạng màu sắc, giúp bạn dễ dàng tiếp cận thông tin.
    • Các chương hướng dẫn chi tiết: Cuốn sách tập trung vào những kiến thức cốt lõi và những tiến bộ gần đây trong lĩnh vực nhi khoa.
    • Bao gồm thông tin về COVID-19 và các bệnh lý khác: Cuốn sách bao gồm thông tin về COVID-19, Hội chứng Viêm nhiễm Đa hệ ở Trẻ em (MIS-C) và Bệnh Lý Phổi do Hút Thuốc.

    Bạn có thể tìm hiểu thêm về cuốn sách tại đây. Nếu bạn muốn tải sách, bạn có thể truy cập đây.

    Lưu ý: Đây chỉ là một tóm tắt và bạn nên đọc cuốn sách để có cái nhìn toàn diện hơn về nhi khoa.