Tác nhân có thể là vi khuẩn (60%), virus , bệnh lý tự miễn, ung thư
=> Ở châu A 60% là do nhiễm trùng => Nếu chưa có gợi ý gì về nguyên nhân, đánh kháng sinh theo kinh nghiệm mạnh, phổ rộng từ đầu, sau đó xuống thang chứ không dùng KS tăng bậc như điều trị bình thường => 24h sau làm lại bilan thực bào
-TB Lympho T có dấu ấn chung là CD3 => trên CD3 có dấu ấn riêng
+Lympho T độc tế bào: CD8 => Bình thường Lympho T CD8 cũng chứa các hạt độc bên trong, khi được kích hoạt lên, giải phóng các hạt độc ra ngoài khỏi Lympho T CD8 => Lympho T Killer
+ Lympho T Helper: CD4
+ NK : dấu ấn CD5,6
*Cytokin quan trọng nhất cần quan tâm là
INF-Gamma (Gamma Interferon)
Hoạt hóa Macrophages
Quá trình chuyển thành fibrinogen: Prothrombin complex -> Fibrinogen. INF-Gamma tăng gây ảnh hưởng đến Prothrombin Complex => Giảm Fibrinogen
TNF-alpha :
Tăng sinh lượng lớn, làm Macrophages tấn công các TB trong tủy => giảm các dòng TB máu
Ức chế LPL => không thủy phân được Chylomicron => triglycerite tăng
IL6 => Gây tổn thương mô (gan, não…) => tổn thương không hồi phục => tăng men gan rất cao
*Tại sao lại tăng Triglycerite ?
Quá trình thùy phân từ Chylomicron (chứa nhiều triglycerite nhất) -> HDL cần men LPL (Lipoprotein Lipase)
*Tại sao tăng Ferritin ?
Ferritin là 1 protein do gan tạo ra, không phản ánh thật sự sắt dự trữ trong gan, nó chỉ là nơi sắt dự trữ trú ẩn => có hiện tượng tăng giả trong viêm
Nguyên lý chung: khi cơ thể có hiện tượng viêm, hầu hết các protein trong cơ thể đều tăng sản xuất => bao gồm cả ferritin
Mốc 10000mcg/L => chỉ điểm bão Cytokin
*Tổn thương gan trong HC Thực bào có gì đặc biệt ?
Tổn thương Do Cytokin chủ yếu là ty thể => AST tăng cao >> ALT (giống sốt xuất huyết ???)
Khác với Tổn thương gan trong Viêm gan, …
3/ Tiêu chuẩn chẩn đoán
Tiêu chuẩn vàng: Sinh thiết tủy hoặc hạch => thấy hình ảnh Macrophages đang ăn tế bào máu
Không ứng dụng nhiều trên lâm sàng
*Cận lâm sàng thường làm thên LDH => LDH tăng đồng bộ với Ferritin và Triglycerite => ủng hộ việc TB ở mô hoặc cơ quan bị tổn thương vỡ ra, giải phòng LDH
Thực bào là phải có sốt, nếu BN hết sốt 24h rồi thì tạm gác thực bào qua 1 bên. Có thể CLS sẽ đi sau lâm sàng (2-3 ngày sau sẽ hồi phục), tuy nhiên, thực bào là phải có sốt
4/ HC thực bào đã vào Bão Cytokin chưa ?
=> Đủ 4 tiêu chuẩn
1.Ferritin > 10.000 mcg/L
2. Triglycerite > 7 mmol/L
3. LDH > 3000
4. Kèm theo 3 dòng giảm rất sâu
Nếu chỉ có Ferritin tăng đơn độc, nên tìm nguyên nhân
Tự Miễn
RL Miễn dịch
Bệnh lý khác mới vào giai đoạn hoạt hóa Macrophage
5/ Khi nào nghĩ HC thực bào nguyên phát ?
Đáp ứng không tốt với điều trị cơ bản ban đầu
6/Điều trị
Đầu tiên đặt câu hỏi có vào bão Cytokin chưa ?
-Đã có Bão => tập trug xử lý cho ra bão đã => BN chết vì bão
-Chưa có Bão => Từ từ tim nguyên nhân => điều trị tác nhân
-Điều trị Dexamethasone tấn công 8 tuần
-Sau 8 tuần hết => ngưng
-Sau 8 tuần => có đáp ứng hết sốt nhưng ferritin còn cao, Gan Lách còn to => tiếp tục điều trị duy trì tới mốc 24 tuần hoặc 40 tuần
=> tới mốc 24 tuần nếu tái phát trở lại => Đặt câu hỏi nguyên nhân bẩm sinh có hay không ?
3/ Tại sao không dùng CPT ngay từ đầu mà dùng điện giải rồi mới CPT
-Do cơ thế mất dịch của SXH: dịch thoát khỏi lòng mạch vào khoang thứ 3, vào khoảng kẽ… làm BN tụt huyết áp => sốc
=> Cái mình mong muốn là kéo HA bệnh nhân quay lại sớm từ đầu
-Nếu dùng CPT từ đầu, thì phải truyền lượng dịch rất lớn => nguy cơ phù phổi, RL đông máu…
-Dùng điện giải trước, sẽ bù được ngay lượng dịch để kéo HA trở lại, mặc dù sau đó rất nhanh dịch cũng thoát ra ngoài lòng mạch, thì CPT theo sau sẽ giúp kéo lượng dịch vừa ra ngoài trở lại lòng mạch mà không phải chịu nguy cơ do truyền CPT qua nhiều
4/ Truyền dịch cần chú ý gì
4.1.Đánh giá đáp ứng với LR bằng dấu hiệu gì ?
-Tri giác
-Mạch
-Huyết áp
-CRT
-Nước tiểu
=> Mắc mornitor
-Bơm dịch nếu nhịp tim BN giảm dần, sóng mạch đều => truyền đúng
-Bơm dịch nếu nhịp tim nhanh lên, khám gan to => Xem lại tốc độ truyền hoặc loại sốc xác định đúng chưa
4.2. Đánh giá phù phổi
4.3. Dựa vào sinh hiệu hay hct để giảm dịch ?
=> Sinh hiệu
5. Thể tích tuần hoàn giảm trên 20% => cơ thể mất khả năng bù trừ => suy sụp hệ tuần hoàn
-Khi BN vào sốc, thể tích tuần hoàn đã giảm > 20% => bù dịch lại để phục hồi => kì vọng hct sẽ giảm xuống dưới 20%
-Tuy nhiên, nếu giảm hơn > 20%, ngoài việc pha loãng, cần chú ý thêm tình trạng mất hồng cầu (xuất huyết, có thể xuất huyết vào khoang thứ 3)
Điển hình: đổ 20ml/kg dịch vào mà vẫn không ra sốc + Hct giảm nhanh > 20%
+Nếu kèm huyết động không ổn định nữa => càng ủng hộ có xuất huyết đi kèm ( có thể vào khoang thứ 3 không thấy được)
+ Nếu mạch giảm đều, rõ dần, HA ổn, CRT phục hồi, dịch đã truyền 2-3 liều 20ml/kg Hct mới giảm > 20% => khả năng cao không phải
6. Đường truyền tủy xương
-Dùng trong 6-12 tiếng ( tốt nhất là 6 tiếng => viêm tủy xương)
-Dấu hiệu phải dừng đường truyền tủy xương ngay:
-Phù khớp
-Căng cứng cơ xung quanh, mất mạch ngoại vi phía dưới ( kim đi vào cơ)
-Gãy xương (trẻ nhỏ)
7.Natri máu của BN sốc SXH thường dao động 120-130 mmol/L => Đưa 1 lượng dịch lớn vào cơ thể ( xem nồng độ Natri trong NS và LR) => Giảm Natri do pha loãng
-Tất cả các dịch truyền đều có dung môi pha natri nên việc bù Natri thường không quá cấp thiết (nếu không có dấu hiệu biến chứng)
*Albumin có thể giảm cũng do pha loãng
8. Khám bệnh nhân ban đầu phải đánh giá dấu hiệu suy tim cấp
-Mạch nhanh
-Nhịp tim nhanh, Gallop
-Gan to, Tm cổ nổi, phản hồi Gan – TM Cổ (+)
=> Sau mỗi lần dánh giá đáp ứng, phải đánh giá có dấu hiệu quá tải dịch không
-Suy tim cấp
-Phù phổi cấp: ran phổi, khó thở, trào bọt hồng là đã nặng
9.Khám lâm sàng ban đầu phải chú ý dấu hiệu cảnh báo, yếu tố nguy cơ nặng của BN. Nếu có, lập tức theo dõi tại phòng bệnh nặng hoặc cấp cứu
-Mắc Monitor theo dõi tim , SpO2
-Siêu âm tim, bụng tại giường
=> Không để bệnh nhân đi loạnh quoanh chờ làm XN rồi diễn tiến nặng
Tăng TG là một nguyên nhân phổ biến gây ra viêm tụy cấp. Nhận ra bệnh là một yếu tố quyết định để đưa đến điều trị phù hợp và tránh các diễn tiến bệnh ngày càng nặng hơn.
Dịch tễ
Tần suất
Tăng TG là nguyên nhân chiếm 1-35% trong tất cả các ca viêm tụy cấp và 56% ở các ca viêm tụy cấp có thai. Có một sự khác biệt khá thú vị về vêm tụy cấp do tăng TG và do các nguyên nhân khác, người ta nghiên cứu thấy viêm tụy cấp do tăng TG thường có tuổi đời trẻ hơn (44 so với 52 tuổi) , nam gặp nhiều hơn nữ (65% so với 45%), có bệnh sử béo phì (57 so với 34%), hoặc ĐTĐ (38 so với 17%) khi so với các viêm tụy cấp do các nguyên nhân không phải do tăng TG máu.
Nguy cơ và độ nặng của viêm tụy
Nguy cơ viêm tụy cấp sẽ tăng lên nhiều khi TG > 500 mg/dL (5.6 mmol/L), và sẽ tăng nguy cơ ngoạn mục khi con số này là
triglycerides >1000 mg/dL (11.3 mmol/L). Người ta đã nghiên cứu thấy rằng nguy cơ viêm tụy cấp sẽ lần lượt là 5% khi triglycerides >1000 mg/dL (11.3 mmol/L)
và 10 đến 20% khi triglycerides >2000 mg/dL (22.6 mmol/L). Trong một nghiên cứu hồi cứu 116.500 bệnh nhân có mức TG rơi vào giữa 443 mg/dL and 885 mg/dL, thì tỷ lệ mắc viêm tụy cấp sẽ là 0.12%.
Nguy cơ viêm tụy cấp cũng tăng khi bệnh nhân đã từng mắc viêm tụy cấp trước đó nhiều lần.
Và độ tăng của TG cũng có mối quan hệ với độ nặng của viêm tụy cấp. Dĩ nhiên các yếu tố khác như Lipase, độ nặng của tổn thương tụy cũng ảnh hưởng đến độ nặng. Trong một nghiên cứu hồi cứu 1359 bệnh nhân có viêm tụy cấp, 461 bệnh nhân (30%) có tăng TG > 150 mg/dL,tỷ lệ viêm tụy cấp nặng tăng theo mức tăng của TG.
Bệnh nguyên
Cả nguyên nhân di truyền và rối loạn lipid thứ phát đều ảnh hưởng qua lại trên việc gây viêm tụy cấp do tăng TG.
Tăng TG nguyên phát
Thiếu hụt chylomicron di truyền thường đã xuất hiện từ thời kỳ bào thai. Đây là nguyên nhân gây giảm lipoprotein lipase(LPL).
Bệnh nhân với bệnh sử thiếu chylomicron di truyền có thể vào viêm tụy cấp mà không cần có yếu tố thúc đẩy. Thường bệnh sẽ biểu hiện sớm, nhưng theo thống kê thường được chẩn đoán muộn , thường là ở tuổi 24.
Tăng TG di truyền là nguyên nhân hiếm khi gây ra viêm tụy cấp. Bởi vì mức độ của VLDL hiếm khi nào chạm được ngưỡng gây tăng nguy cơ.
Bệnh nhân với sự trộn tạp tăng lipid máu (chylomicrons và VLDL đều cao) có nguy cơ cao bị viêm tụy cấp. Nhưng dạng này thường sẽ không có TG đủ cao để gây viêm tụy nếu như không có yếu tố môi trường và hormone nhúng tay vào.
Tăng TG thứ phát
Đái tháo đường – ĐTĐ kiểm soát kém cũng như DKA có thể làm khởi phát viêm tụy
tăng TG. Viêm tụy cấp trên bệnh nhân DKA thường xảy ra ở các bệnh nhân toan nặng (PH<7.1) và có anion gap cao. Tăng TG xảy ra rất rõ trong DKA, nhưng không thường xuyên thấy bởi vì sự oxi hóa acid béo tự do và hình thành thể ketone tăng mạnh hơn việc sản xuất TG và bài xuất VLDL. Tuy nhiên, giảm Insulin gây tăng li giải mô mỡ , làm
tăng acid béo tự do, chúng về gan làm tăng tao VLDL đi kèm với ức chế LPL ở mô ngoại biên, mà hậu quả của việc này là gây ra tăng TG.
Thuốc – Các hormon estrogen cũng như các dẫn xuất của nó có thể gây tăng TG. Các thuốc khác cũng có thể gây tăng TG máu bao gồm: clomiphene, protease inhibitors, antiretroviral agents, propofol, olanzapine, mirtazapine, retinoids, thiazide diuretics, and beta-blockers
Thai Kỳ – Mặc dù thai kỳ gây tăng TG nhiều thường đạt đỉnh vào tam cá nguyệt thứ 3, nhưng rất hiếm khi nó vượt quá con số 300 mg/dL (3.3 mmol/L), một mức mà không đủ để gây viêm tụy cấp. Hầu hết các ca ghi nhận tăng TG trong thai kỳ điều có yếu tố di truyền kèm theo sẵn.
Rượu – Rượu có thể gây tăng TG trên bệnh nhân có gen di truyền rối loạn mỡ máu.
Sinh bệnh học
Triglyceride bản thân nó không phải là một chất độc. Nhưng, bởi vì sự bẻ gãy các phân tử TG thành các acid béo có tính độc bởi men lipase của tụy là nguyên nhân gây độc các mô mỡ trong viêm tụy cấp. Độ nặng của viêm tụy không chỉ đến từ mức độ đáp ứng viêm của mô tụy đến xỡ nào mà còn tùy vào độ gây độc mô mỡ do việc ly giải phân tử TG mà nên.
Trong hầu hết các ca, tăng TG sẽ ở mức ổn định và sẽ quay về bình thường trong 2-3 ngày tùy vào bệnh nguyên và cách điều trị phù hợp. Tuy nhiên, tăng TG và lipase tăng trên 3 lần cho thấy một mức Acid béo rất cao và nguy cơ sẽ xảy ra một đáp ứng viêm toàn thân với viêm tụy cấp kỳ này. Không
có một chỉ dấu sinh học nào có thể cho biết rõ ảnh hưởng của việc độc tế bào mỡ độc lập với viêm tụy cấp trên các bệnh nhân có TG bình thường. Nhưng có một vài nghiên cứu đã chỉ ra có một sự tụt giảm nồng độ calcium huyết trong các trường hợp nặng.
Lâm sàng
Bệnh cảnh – cũng sẽ giống như viêm tụy cấp do các nguyên nhân khác. Bệnh nhân sẽ có đau thượng vị liên tục nặng lan sau lưng và có thể có kèm nôn, ói. Thường bệnh nhân viêm tụy cấp do tăng TG sẽ có tuổi đời trung niên, cón nếu bệnh nhân có kèm theo yếu tố di truyền sẽ đến với tuổi đời nhỏ hơn.
Khám thường sẽ phát hiện các bứu,u mỡ ở các vị trí như tay, chân, mông, và lưng do nguyên nhân tăng chylomicron kéo dài và có thể khám thấy gan lách to bởi vì quá trình lọc lipid của chúng. Có thể nhìn thấy dấu nhiễm lipid võng mạc, nhưng thường TG phải trên 4000mg/dL và lưu ý rằng tầm nhìn không bị ảnh hưởng , dâu hiệu sẽ mất đi khi TG về bình thường.
Xét nghiệm –khi TG tăng cao, máu sẽ đục như sữa. TG quá cao có thể thay thế nước và gây ra hiện tượng giảm Natri máu giả tạo.
Chẩn đoán
Khi TG trên >500 mg/dL (5.6 mmol/L), thì có thể cân nhắc TG chính là nguyên nhân gây viêm tụy cấp. Chẩn đoán sớm sẽ cho ra điều trị phù hợp và giúp cải thiện tiên lượng thông qua việc giảm nguy cơ rối loạn chức năng đa cơ quan. Các yếu tố nguy cơ viêm
tụy cấp bao gồm: ĐTĐ kiểm soát kém, rượu, thai kỳ, béo phì, viêm tụy cấp trước đó, và tiền sử bản thân hoặc gia đình bị tăng TG.
Viêm tụy cấp bản thân nó không gây ra tăng TG. Nhưng trong vài bệnh nhân đặc biệt như béo phì , stress do đáp ứng viêm toàn thân do viêm tụy cấp có thể gây tăng TG.
Việc chẩn đoán viêm tụy cấp cũng đòi hỏi 2 trong các yếu tố: khởi phát đau cấp tính liên tục, đau thượng vị thường lan sau lưng, lipase hoặc amylase tăng trên 3 lần giới hạn trên, nhìn thấy viêm tụy cấp bằng hình ảnh học (CT cản quang, MRI hoặc siêu âm bụng).
Điều trị ban đầu
Điều trị các bệnh nhân viêm tụy cấp do tăng TG gồm 2 phần là điều trị viêm tụy cấp và điều trị giảm TG máu với mục tiêu là ngăn ngừa viêm tụy hoại tử và suy các cơ quan.
Việc duy trì mức độ TG dưới 500 mg/dL (5.6 mmol/L) có thể giúp thúc đẩy cải thiện lâm sàng nhanh chóng hơn. Tiếp cận ban đầu của chúng tôi để điều trị tăng TG trên các bệnh nhân viêm tụy cấp do tăng TG dựa trên độ nặng của viêm tụy và sự hiện diện của các yếu tố đáng quan ngại trên lâm sàng.
Đánh giá và xem xét các yếu tố quan ngại
Hạ calcium máu
Nhiễm toan lactic
Các dấu hiệu của đáp ứng viêm toàn thân đang tệ dần (có từ 2 dấu hiệu trở lên)
o Nhiệt độ >38.5°C or <35.0°C
Nhịp tim >90 beats/min
Nhịp thở >20 breaths/min hoặc PaCO2 <32 mmHg
Bạch cầu >12,000 cells/mL,
<4000 cells/mL, hoặc >10% dạng bạch cầu non
Các dấu hiệu của rối loạn chức năng cơ quan hoặc suy đa cơ quan được thiết lập bằng thang điểm Modified Marshall đánh giá rối loạn chức năng cơ quan.
Các đánh giá chung cho tất cả các bệnh nhân
Điều trị viêm tụy cấp – gồm điều trị hồi sức dịch và giảm đau. Sẽ được thảo luận ở một chuyên đề khác.
Ngưng chế độ ăn dầu mỡ – Khi bệnh nhân ăn đường miệng, lượng mỡ nên kiểm soát chặt chẽ (<5 %) đến khi lượng TG <1000 mg/dL (11.3 mmol/L).
Loại bỏ các nguyên nhân thứ phát gây tăng TG – các thuốc gây tăng TG như đã nêu ở trên nên được ngưng.
Các đánh giá dùng cho các trường hợp bệnh nhân chuyên biệt
Thay huyết tương
Hiệu quả – bằng chứng đến từ các nghiên cứu quan sát. Các nghiên cứu thực chứng lâm sàng ngẫu nhiên vẫn còn ít. Một lượt thay huyết tương đã báo cáo cho thấy có thể giảm TG xuống từ 50-80% ban đầu. Tuy nhiên nó không chứng minh được sẽ làm
thay đổi hay cải thiện kết cục của bệnh nhân. Một nghiên cứu hồi cứu thay huyết tương
với cỡ mẫu 60 bệnh nhân đã không thấy có sự khác biệt gì có ý nghĩa thông kê trên tiêu chí tử vong, biến chứng khu trú hoặc toàn thân khi so với những người được điều trị nội khoa.
Thay huyết tương không giúp cải thiện kết cục trên các ca viêm tụy cấp do tăng TG chưa có biến chứng. Trong một nghiên cứu gồm 67 bệnh nhân chưa có rối loạn chức năng đa cơ quan , không có sự khác biệt gì về độ tử vong và thời gian nằm viện khi so sánh thay huyết tương với điều trị nội khoa thông thường, mặc dù ngay thời điểm ban đầu mức TG của bệnh nhân rất cao.
Theo dõi và thời gian điều trị – khi tay huyết tương, TG nên được xét nghiệm lại sau mổi lần thay. Chúng tôi sẽ tiếp tục thay cho đến khi TG <1000 mg/dL (11.3 mmol/L).
Điều trị bằng Insulin
Chúng tôi sử dụng insulin cho những ca có nhiều nguy cơ mà thay huyết tương được chỉ định nhưng cơ sở vật chất không có hoặc bệnh nhân không dung nạp được.
Chúng tôi thường sử dụng insulin regular và truyền với tốc độ 0.1 to 0.3 units/kg/giờ và theo dõi sát đường huyết. Ở các bệnh nhân có mức đường huyết từ 150-200 mg/dL, chúng tôi bổ sung thêm Glucose 5% để phòng hạ đường huyết do insulin. Giá trị của TG nên theo dõi mổi 12 giờ.
Glucose máu thì theo dõi mổi giờ và qua đó điều chỉnh glucose/insulin. Nên ngưng insulin khi TG <500 mg/dL (5.6 mmol/L).
Insulin làm giảm VLDL Trigliceride và cũng làm giảm luôn TG huyết thanh thông qua tăng cường hoạt động của men lipoprotein lipase, một loại enzyme có thể thúc đẩy chylomicron và VLDL chuyển hóa
thành glycerol và acid béo tự do. Insulin còn ức chế men lipase nhạy hormone trong tế bào mỡ, mà men này chính là chìa khóa để phá Triglyceride trong tế bào mỡ thành acid béo tự do giải phóng vào tuần hoàn. Insulin có thể nói là làm hạ TG, nhưng mục tiêu điều trị chính đó là đảo ngược lại quá trình giải phóng các acid béo tự do từ tế bào mỡ do quá trình stress gây ra, để thúc đẩy tân tạo TG nội bào trong tế bào mỡ, thúc đẩy chuyển hóa acid béo tự do trong các tế bào còn nhạy insulin, giảm đề kháng insulin ngoại biên.
Ở các bệnh nhân mà không có nhiều yếu tố nguy cơ quan ngại và không co tăng đường huyết, các bằng chứng ủng hộ cho việc sử dụng insulin còn rất ít.
Các điều trị bổ sung
Đánh giá các yếu tố nguy cơ – đánh giá các yếu tố gây tăng TG thứ phát. Ở các bệnh nhân có tăng TG không rõ ràng do các nguyên nhân thứ phát, các thành viên trong gia đình nên được tầm soát luôn TG
Điều trị mỡ máu – Các bệnh nhân đã hồi phục nên được điều trị phòng ngừa viêm tụy cấp và tăng TG tái phát. Điều trị bằng thuốc (vd, gemfibrozil 600 mg uống 2 lần/ngày), và các biện pháp thay đổi lối sống khác.
Home message
Bệnh nhân với tiền sử thiếu chylomicron di truyền có thể vào viêm tụy cấp mà không cần có yếu tố thúc đẩy
Đánh giá và xem xét các yếu tố quan ngại
Hạ calcium máu
Nhiễm toan lactic
SIRS
Suy cơ quan/ đa cơ quan
Chúng tôi thường sử dụng insulin regular và truyền với tốc độ 0.1 to 0.3 units/kg/giờ và theo dõi sát đường huyết
Chúng tôi sử dụng insulin cho những ca có nhiều nguy cơ mà thay huyết tương được chỉ định nhưng cơ sở vật chất không có hoặc bệnh nhân không dung nạp được
Chúng tôi thường sử dụng insulin regular và truyền với tốc độ 0.1 to 0.3 units/kg/giờ và theo dõi sát đường huyết. Ở các bệnh nhân có mức đường huyết từ 150-200 mg/dL, chúng
Viêm tụy cấp do tăng triglyceride máu 2022
tôi bổ sung thêm Glucose 5% để phòng hạ đường huyết do insulin
Viêm phổi hít sẽ dẫn đến một chuỗi các kết quả tồi tệ, nguyên nhân là do hít phải dịch dạ dày hoặc có thể dịch tiết hầu họng, mà có thể chứa vi khuẩn và/hoặc một một độ PH thấp đi kèm, hoặc các chất ngoại lai (như các mảnh/dịch thức ăn, dầu khoáng, nước muối hoặc nước sạch) vào trong đường hô hấp dưới.
ĐỊNH NGHĨA
Gốc từ viêm phổi hít nên được sử dụng để chỉ các tình trạng hít phải các chất từ dạ dày hoặc từ hầu họng (bảng 1). Nguyên nhân là do sự suy chức năng phòng vệ và làm sạch (ví dụ: hôn mê, đóng thanh môn, hoặc phản xạ ho). Bản chất của vật chất xâm nhập, tình trạng bệnh phổi nền, và tình trạng lúc nhập viện là các thành tố sẽ chia viêm phổi hít thành ba hội chứng lâm sàng phổ biến nhất được đặt tên là: viêm phổi hóa chất, nhiễm khuẩn và tắc nghẽn đường thở. Song, thực tế là chúng thường chồng lấp lên nhau và khó phân định rõ ràng trên lâm sàng. Kiểu phân loại như trên là cần thiết để hiểu về viêm phổi hít.
Viêm phổi hóa chất là do hít phải các vật chất (ví dụ như dịch acid dạ dày) mà có thể gây ra các phản ứng viêm trên đường thở dưới, không đi kèm nhiễm khuẩn.
Viêm phổi hít nhiễm khuẩn là tình trạng nhiễm khuẩn do sự xâm nhập một lượng lớn vi khuẩn vào phổi qua các chất hít từ miệng và dạ dày. Các vi khuẩn này có thể là kỵ khí, yếm khí hoặc hỗn tạp. Các yếu tố nguy cơ gây viêm phổi hít gồm: rối loạn thần kinh, giảm ý thức, rối loạn thực quản, ói mửa và hít sặc có người chứng kiến.
Ngược lại, các mầm bệnh phổi biến gây ra viêm phổi hít vi khuẩn như: Streptococcus pneumoniae, Haemophilus influenzae, gram-negative bacilli, and Staphylococcus aureus, sẽ có độc tính mạnh hơn so với việc nhiễm thông thường, đến nổi, chỉ một lượng nhỏ vi khuẩn là cũng đủ để kích hoạt một viêm phổi rõ ràng trên lâm sàng.
Tắc nghẽn cơ học – là hít phải dịch hoặc các hợp chất gây tắc nghẽn đường thở, hoặc kích hoạt đóng phản xạ đóng đường thở nhưng không gây ra các phản ứng viêm mô kẻ phổi.
Một cách phân loại khác là, viêm phổi hít gây tổn thương phổi do hít dịch dạ dày, và viêm phổi hít gây viêm phổi do nhiễm khuẩn.
CÁC TÌNH TRẠNG DỰ BÁO TRƢỚC KHẢ NĂNG SẼ HÍT SẶC
Hít một lượng nhỏ các chất bài tiết ở dịch hầu họng thì khá phổ biến kể cả ở người khỏe mạnh và nhìn chung sẽ không gây ra hậu quả gì. Các test đã cho thấy ít nhất một nửa số người khỏe mạnh hít sặc trong khi ngủ. Do đó, hầu hết các tình huống hít sặc sẽ là bán cấp và/hoặc tự giải quyết nhanh chóng mà không hề có biểu hiện lâm sàng. Một số lượng nhỏ các trường hợp sẽ có biểu hiện lâm sàng tùy thuộc vào thể tích và chất hít sặc cũng như sự phòng vệ thất bại của cơ thể vật chủ.
Các tình trạng mà có thể tiên lượng trước khả năng sẽ có hít sặc bao gồm: giảm nhận thức, không thể nuốt bình thường, suy khả năng làm sạch đường thở (chức năng lông chuyển hoặc phản xạ ho), hoặc hít sặc thường xuyên hay hít sặc với thể tích lớn. Các tình trạng mà gây ra hít sặc thường xuyên hay hít thể tích lớn có thể tăng khả năng viêm phổi hít. Các ví dụ như sau đây:
Giảm nhận thức (các thuốc an thần, sử dụng rượu, gây mê, động kinh toàn thể) có thể ảnh hưởng đến các cơ chế phòng vệ như phản xạ ho và phản xạ đóng nắp thanh môn.
Rối loạn khả năng nuốt từ các khiếm khuyết thần kinh.
Các rối loạn đường tiêu hóa trên bao gồm: bệnh thực quản, các can thiệp ngoại khoa vào đường thở hay thực quản, trào ngược dạ dày thực quản.
Sự làm hư hại khả năng đóng nắp thanh môn, hay đứt/gãy cơ vòng thực quản dưới do các can thiệp như: mở khí quản, đặt nội khí quản, các ung thư đầu cổ, nội soi phế quản, nội soi dạ dày, cho ăn qua sonde mủi-dạ dày.
Gây tê vùng hầu và các tình huống hỗn tạp khác như: ói, cho ăn qua ống lượng nhiều, cho ăn trên bệnh nhân đã phẫu thuật cắt dạ dày, tư thế lúc cho ăn.
Vệ sinh răng miệng kém cũng tăng nguy cơ viêm phổi hít, bởi vì trong tình huống này khi hít phải các vi khuẩn thường trú ở miệng rất có khả năng sẽ chuyển thành các chủng gây bệnh.
Lớn tuổi cũng tăng nguy cơ viêm phổi hít, do các bệnh lão khoa (tai biến, các bệnh suy nhận thức thần kinh, rối loạn ý thức do thuốc).
Ngưng tuần hoàn hô hấp là một tình huống với nguy cơ đặc biệt cao cho viêm phổi hít vì các thủ thuật hồi sinh như CPR, đặt nội khí quản, bóp mask.
Có một mối liên hệ giữa các thuốc làm giảm bài tiết acid và viêm phổi mắc phải cộng đồng, viêm phổi thở máy, viêm phổi bệnh viện. Cơ chế phổ biến được cho là các thuốc này làm mất hàng rào acid bảo vệ dạ dày, làm các vi khuẩn sinh sôi lên dẫn đến viêm phổi nhiễm khuẩn khi chẳng may hít phải dịch dạ dày.
Trong một nghiên cứu, 1946 bệnh nhân nhập viện từ các trung tâm chăm sóc hay và cộng đồng, yếu tố nguy cơ phổi biến nhất gây viêm phổi hít mắc phải cộng đồng là: rượu, thuốc hoặc suy gan, ngược lại các yếu tố nguy cơ phổ biến nhất gây viêm phổi hít tại các trung tâm chăm sóc là: bệnh thần kinh mà gây ra các hậu quả như rối loạn nuốt (72%). Trong một nghiên cứu khác 134 bệnh nhân già (tuổi trung bình là 84), nhập viện với viêm phổi, 55% bệnh nhân này có rối loạn khẩu hầu được phát hiện qua test nuốt nước.
VIÊM PHỔI HÓA CHẤT
Viêm phổi hóa chất được mô tả đầu tiên bởi Mendelson vào năm 1946, và thỉnh thoáng nó cũng được gọi là hội chứng Mendelson. Viêm phổi hóa chất cũng xuất hiện xung quanh một cuộc can thiệp ngoại khoa, thường nhất là lúc đặt và rút nội khí quản, hoặc trong lúc nội soi vùng hầu.
Kết quả báo cáo của Mendelson quan sát thấy trên 61 thai phụ bị hít dịch dạ dày lúc gây mê. Suy hô hấp và tím tái nhanh chóng thường xuất hiện chỉ sau 02 giờ kể từ khi hít sặc. Xquang
cho thấy những đám mờ có thể ở một hay cả hai phổi. Bất chấp, lâm sàng ban đầu nặng cỡ nào thì tất cả 61 sản phụ đều hồi phục nhanh chóng trên lâm sàng chỉ sau 24-36 giờ, và trên Xquang là 4-7 ngày mà không cần sử dụng thuốc kháng sinh.
Những nghiên cứu sau đó đã chỉ ra rằng, viêm phổi hít dạng này sẽ thỉnh thoảng có một khoảng gọi là bùng nổ, mà có thể kết quả sẽ là ARDS (hội chứng nguy kịch hô hấp cấp). Trên những bệnh nhân viêm phổi hít biến chứng ARDS, các nghiên cứu khí máu đã cho thấy PaO2 sẽ giảm, PaCO2 có thể giảm hoặc bình thường, đi kèm với một tình trạng kềm hô hấp. Các nguyên nhân cơ chế gây giảm oxy máu gồm: phù phổi không do tim, giảm hoạt động của chất surfactant, phản xạ đóng đường dẫn khí, xuất huyết phế nang, và hình thành các màng hyaline. Kiểm tra chức năng phổi sẽ cho thấy một tình trạng giảm độ giãn nở, thông khí-tưới máu bất thường, và giảm độ khuếch tán khí.
Sự khác biệt trên lâm sàng của viêm phổi hít hóa chất được Mendelson báo cáo lần đầu tiên so sánh với các báo cáo của các nghiên cứu gần đây sẽ chỉ ra sự khác nhau của các loại bệnh nhân sẽ tiến triển đến các biến chứng vừa nêu. Mendelson đã mô tả trên những sản phụ trẻ và khỏe mạnh, còn các nghiên cứu gần đây thực hiện trên người già, yếu hoặc nhiều bệnh nền.
Sinh Lý Bệnh
Sinh lý bệnh của viêm phổi acid được nghiên cứu rộng trong các thí nghiệm trên động vật. Các nghiên cứu này cho thấy, sử dụng một lượng acid với thể tích đủ lớn (thường 1-4 ml/kg) và độ PH ≤2.5 sẽ là điều kiện cần để gây ra viêm phổi acid. Qui ra trên người là 70ml acid dạ dày. Một lượng ít hơn 70ml cũng vẫn có thể gây ra dạn viêm phổi không biểu hiện lâm sàng hoặc một dạng viêm phổi không phải kiểu bùng nổ. Các quan sát trên lâm sàng các đợt viêm phổi cứ tái đi tái lại với những đợt trào ngược dạ dày thực quản,
thường đi kèm với một tình trạng xơ phổi, hỗ trợ cho quan điểm trên.
Các thay đổi bệnh học trên các động vật thí nghiệm tiến triển rất nhanh. Chỉ trong vòng 3 phút, xẹp phổi, xuất huyết quanh phế quản, phù phổi và hủy tế bào biểu mô phế quản xảy ra cấp kỳ. Trong vòng 4 giờ, các phế nang bị lấp đầy với các bạch cầu đa nhân và các sợi Fibrin. Màng hyaline sẽ xuất hiện trong vòng 48 giờ. Phổi vào thời điểm này xuất huyết và phù kinh khủng với tình trạng đông đặc phế nang.
Tất cả các dấu hiệu vừa nêu đã được nhìn thấy trên tử thiết bệnh nhân viêm phổi hít. Cơ chế được giả định rằng là do sự giải phóng các cytokin tiền viêm, đặc biệt là TNF-alpha và IL-8.
Các Đặc Điểm Lâm Sàng
Sự bùng lên, đột ngột các triệu chứng như: khó thở, ho, giảm oxy , nhịp tim nhanh trên các bệnh nhân có nguy cơ hít sặc
Sốt, mà thường thường là với nhiệt độ thấp
Rale lan tỏa hoặc rít khi nghe phổi.
Các đám mờ trên hình ảnh phổi sẽ tùy thuộc vào loại phim chụp
Chẩn Đoán
Các chẩn đoán viêm phổi hóa chất thì thường dựa vào các đặc điểm lâm sàng và các quãng thời gian bệnh hoành hành như đã nêu trên. Sau khi nghi ngờ viêm phổi hít, những bất thường trên Xquang sẽ điển hình xuất hiện trong vòng 02 giờ. Nội soi phế quản, mặc dù là không cần thiết lắm, nhưng khi thấy các mảng đỏ hồng trên đường phế quản, đó là dấu hiệu chỉ ra có tổn thương do phỏng acid.
Điều Trị
Bệnh nhân mà hít sặc được chứng kiến, nên ngay lập tức được hút miệng –hầu, với tư thế đầu ở vị trí tránh cho bệnh nhân phải hít sặc nhiều hơn, còn với các bệnh nhân đã có nôi khí quản thi phải ngay lập tức hút sạch dịch hoặc các chất mà có thể gây tắc nghẽn. Rửa phế quản-phế nang cũng có thể được sử dụng để làm sạch các chất, nhưng không có tác dụng bảo vệ phổi từ các tổn thương do hóa chất mà đang tiến triển.
Chăm sóc hỗ trợ – Tiếp cận điều trị chính yếu là hổ trợ oxy và thông khí cơ học trên những bệnh nhân bị suy hô hấp. (Sẽ được thảo luận ở một bài khác)
Glucocorticoids toàn thân – Sử dụng cho điều trị viêm phổi hít hóa chất thì không được khuyến khích, các nghiên cứu quan sát trên người không chứng minh thấy lợi ích rõ ràng. Điều trị Glucocorticoids trên bệnh nhân ARDS được thảo luận trong một bài khác.
Kháng sinh kinh nghiệm – Các nghiên cứu lâm sàng đã trình bày 13-26% bệnh nhân với các biến cố hít sặc được chứng kiến, đã bị nhiễm khuẩn phổi trong thời
gian hồi phục. Bởi vì, rất khó để có thể loại trù nhiễm khuẩn phổi trên những bệnh nhân hít sặc, kháng sinh thì thường sẽ được kê ngay thời điểm hít sặc. Dĩ nhiên, một tỷ lệ cao bệnh nhân tự hồi phục sau khi bị viêm phổi hít, cũng như các nghiên cứu quan sát so sánh giữa việc không điều trị và có điều trị đã đề nghị rằng việc sử dụng kháng sinh nhìn chung là không cần thiết trên hầu hết bệnh nhân. Trong một nghiên cứu tổng quan hồi cứu với 200 bệnh nhân viêm phổi hít, là một ví dụ, người ta không thấy có sự khác biệt gì giữa nhóm không điều trị và có điều trị kháng sinh (không khác biệt trên tiêu chí nhập ICU hoặc tử vong).
Do đó, chúng tôi dùng kháng sinh trên những bệnh nhân hít sặc với suy hô hấp dai dẳng hoặc tiến triển với dấu hiệu viêm toàn thân. Với những bệnh nhân mà chúng tôi đã quyết định sử dụng kháng sinh, chúng tôi sẽ tái đánh giá lại xem có cần sử dụng tiếp hay không sau mổi, 24 giờ, 48 giờ và 72 giờ. Nếu chức năng phổi và dấu hiệu toàn thân đã quay lại mức nên thì kinh điển là chúng tôi sẽ ngưng kháng sinh.
VIÊM PHỔI NHIỄM KHUẨN
Viêm phổi hít nhiễm khuẩn nguyên nhân là do nhiễm các vi khuẩn thường trú ở đường hô hấp trên hoặc dạ dày. Như trước đây, viêm phổi hít được cho là nhiễm khuẩn các chủng ít độc, các vi khuẩn kỵ khí ở miệng và streptococci, là các chủng tồn tại thường trú trong khoang miệng. Nhiều nghiên cứu gần đây, đã cho thấy viêm phổi hít do kỵ khí không còn nổi bật nữa, mà nhấn mạnh sự phổ biến hơn các chủng có độc lực mạnh hơn gặp trong viêm phổi bệnh viện hay viêm phổi liên quan chăm sóc y tế như S. aureus, Pseudomonas aeruginosa và các chủng trực khuẩn ái khí bắt buộc hay ái khí tùy nghi khác.
Sự nhiễm các mầm bệnh khác nhau được giải thích bởi: các tình huống khác nhau (nhiễm cộng đồng hay trong cơ sở chăm sóc hay nhiễm trong bệnh viện), tình trạng lúc nhập viện (khởi phát cấp hay là bán cấp), phương pháp lấy mẫu để làm vi sinh (hút trong khí quản, catheter với chải bảo vệ, hoặc hút xuyên ngực hau nội soi phế quản thường qui), sử lý mẫu thử tốt không, chất lượng của phòng lab, và có lấy trước khi dùng kháng sinh hay không. Mẫu đàm từ một bệnh nhân viêm phổi bệnh viện, mặc dù hút xuyên từ ngoài vào khí quản, sinh sôi ra những mầm bệnh ái khí là đương nhiên nhưng thỉnh thoảng vẫn mọc ra những mầm bệnh kỵ khí bắt buộc. Và hiện nay cũng đã bắt đầu xuất hiện nhiều hơn các nhiễm trùng phổi kỵ khí như: áp xe phổi, viêm phổi hoại tử, tràn mủ màng phổi, so với quá khứ và cũng chưa rõ nguyên nhân là vì sao.
Sinh Lý Bệnh
Như kiến thức tiêu chuẩn, đường hô hấp dưới kể từ thanh quản sẽ là vô khuẩn nên người ta thường lấy mẫu để làm vi sinh từ khoảng này (hút xuyên khí quản, hút xuyên ngực, hay nội soi phế quản với chải bảo vệ). Dĩ nhiên, nhiều nghiên cứu sử dụng kỹ thuật cấy độc lập, vẫn tông tại những microbiome trên suốt đường hô hấp từ mủi cho đến tạn các phế nang.
Vi sinh
Trong quá khứ, kỵ khí và các hậu quả của nó (áp xe phổi, tràn mủ màng phổi) được tin là mầm bệnh chiếm ưu thế trong các biến cố viêm phổi hít, nhưng các nghiên cứu xa hơn đã cho thấy vi khuẩn ái khí có lẻ cũng phổ biến và có ảnh hưởng trên lâm sàng quan trọng.
Vai trò kỵ khí trong viêm phổi hít được xác định vào năm 1970 nhờ một kỹ thuật xác định kỵ khí đặc biệt. Việc thu thập mẫu kỵ khí được làm rất cẩn thận, lấy mẫu từ đường hô hấp dưới để tránh không cho tạp nhiễm các chủng từ đường hô hấp trên bằng kỹ kỹ thuật lấy mẫu xuyên khí quản, nội soi, kim hutus xuyên ngực.
Kỵ khí được cấy ra từ các nhiễm trùng phổi là Peptostreptococcus (cầu khuẩn Gram dương), Fusobacterium nucleatum (fusiform gram-negative bacilli), Fusobacterium necrophorum (trực khuẩn Gram âm dài), Prevotella, Bacteroides melaninogenicus (delicate gram-negative bacilli), and other Bacteroides spp [50-54].
Các nghiên cứu sau này, đã cho thấy ái khí chiếm ưu thế nhiều hơn kỵ khí trong các viêm phổi hít, đặc biệt trên các bệnh nhân không có hình thành ổ áp xe, và nhiễm hỗn tạp vừa kỵ khí vừa ái khí cũng khá phổ biến, được minh chứng qua các nghiên cứu sau:
Một nghiên cứu hồi cứu, 95 bệnh nhân đã điều trị lâu trong khu chăm sóc y tế, nay nhập ICU vì viêm phổi và thuộc nhóm nguy cơ của hít sặc, đã cho thấy trực khuẩn Gram âm là phổi biến nhất (gram-negative bacilli – 49%), tiếp theo là các chủng kỵ khí (16%) và S.aureus (12%).
Trong nghiên cứu 212 bệnh nhân người Nhật với áp xe phổi, streptococci là bệnh nguyên phổ biến nhất (60%), và kỵ khí thì xếp hàng thứ 2 (26%).
Kỵ khí ít xuất hiện trong các tình huống viêm phổi hít trong bệnh viện, mà trong các tình huống này thường sẽ gặp Streptococci, S. aureus và trực khuẩn Gram âm.
Các Đặc Điểm Lâm Sàng
Bức tranh lâm sàng của viêm phổi hít rất đa dạng, phụ thuộc vào thời điểm bệnh, tình trạng miễn dịch của bệnh nhân. Các ca viêm phổi ở cộng đồng, người ta nhận thấy rằng nếu nhiễm kỵ khí thì diễn tiến thường tương đối chậm. Sốt thì phổ biến, rét run thì không có. Thường thường nó có liên kết với các bệnh nha chu, mà sẽ ít gặp ở những bệnh nhân vệ sinh răng miệng sạch sẽ hay không có răng. Nếu là viêm phổi hít bệnh viện thì sẽ hay gặp S.aureus và trực khuẩn Gram âm, là các chủng hay gặp phổ biến trong khoang miệng của các bệnh nhân nội viện.
Hầu hết bệnh nhân nhập viện với các triệu chứng viêm phổi phổ biến như: ho, sốt, khạc đàm mủ và khó thở. Các ca mà nhiễm kỵ khí thì diễn tiến chậm hơn, kéo dài vài ngày hoặc vài tuần so với chỉ vài giờ như các mầm bệnh khác. Nhiều bệnh nhân có sụt cân, thiếu máu, là biểu hiện của tình trạng đã mạn tính. Nếu nhiễm S.aureus hay các trực khuẩn Gram âm, diễn tiến bệnh sẽ nhanh hơn nhiều.
Các đặc điểm lâm sàng mà sẽ đặc trưng cho viêm phổi hít nhiễm khuẩn bao gồm:
Vắng mặt lạnh run
Yếu tố có khả năng hít sặc, thường đi cùng tình trạng tri giác: lạm dụng thuốc, rượu, gây mê, hoặc nuốt khó.
Bệnh nha chu
Đờm có mùi hôi thối, đây là đặc điểm của nhiễm kỵ khí, mặc dù không thể loại bỏ các mầm bệnh ái khí khác.
Nhuộm Gram cho thấy những hình dáng đơn dạng của kỵ khí với số lượng lớn.
Xquang ngực cho thấy tổn thường phân thùy hoặc thùy phổi, một sự co thắt gây tắc nghẽn hay một vật ngoại lai. Hình ảnh học cho thấy bằng chứng của hoại tử phổi đi cùng với áp xe phổi hay tràn mủ sẽ nhất quán với nghi ngờ viêm phổi hít, mặc dù không thể chẩn đoán nhiễm kỵ khí.
Với bản chất diễn tiến chậm của kỵ khí, nhiều bệnh nhân sẽ nhập viện trễ và đa số là đã có các biến chứng như áp xe phổi, viêm phổi hoại tử hoặc tràn mủ. Còn nếu hít phải các chất ngoại lai như răng, hay dịch dạ dày thì diễn tiến nhanh hơn nhiều.
Đánh Giá
Viêm phổi hít nhiễm khuẩn nên được nghi ngờ khi suy hô hấp mới xuất hiện hay ngày càng nặng lên sau khi bệnh nhân hít sặc hoặc trên cơ địa các bệnh nhân nhiều yếu tố nguy cơ hít sặc:
Nuốt khó – Một bệnh sử được kể là ho trong khi ăn hay uống thì khá giống hít sặc, nhưng đôi khi hít sặc cũng có thể không gây phản xạ ho gì cả.
Các nghiên cứu về vi sinh – Các nghiên cứu được thu thập phụ thuộc độ nặng của bệnh, như với viêm phổi cộng đồng. Trên những bệnh nhân nhập viện với viêm phổi hít, chúng tôi sẽ cấy máu, lấy đàm nhuộm Gram và cấy. Chúng tôi cũng đề nghị test kháng nguyên Streptococci nước tiểu.
Trên các bệnh nhân không nặng, các xét nghiệm đàm là đủ để xác định các mầm bệnh ái khí quan trọng trên lâm sàng.
Pro-calcitonin – đã được chứng minh là vô dụng để xác định tình trạng nhiễm khuẩn phổi sau biến cố hít sặc. Trong một nghiên cứu trên 65 bệnh nhân đã đặt nội khí quản mà có hít sặc được chứng kiến, pro-calcitonin đo vào ngày 1 và ngày 3 của bệnh, không giúp phân biệt giữa 2 nhóm bệnh nhân cấy vi sinh hô hấp dưới dương và cấy âm.
Hình ảnh học – Thình thoảng, hình ảnh học thông thường sẽ không thấy gì
trong giai đoạn sớm, nhưng với CT sẽ giúp xác định viêm phổi. Vai trò chính của CT là xác định và mô tả bản chất các ổ áp xe, các vật lạ hay các sang
thương gây tắc nghẽn, và bệnh màng phổi bao gồm tràn mủ.
Chẩn Đoán
Chẩn đoán viêm phổi hít thì chủ yếu dựa vào lâm sàng, yếu tố nguy cơ và bối cảnh (ở nhà, ở bệnh viện, ở các trung tâm chăm sóc bệnh mạn tính), các đặc điểm lâm sàng lúc nhập viện, hình ảnh học các đám mờ phù hợp.
Điều Trị
Ngược lại với viêm phổi hít hóa chất, kháng sinh được chỉ định cho những bệnh nhân viêm phổi hít nghi ngờ nhiễm khuẩn.
Lựa chọn thuốc
Việc chọn kháng sinh gì sẽ tùy thuộc vào bối cảnh xảy ra viêm phổi hít như: tại nhà hay tại bệnh viện, các nghi ngờ hít kỵ khí, độ nặng của bệnh và thông tin về dị ứng kháng sinh. Điều chỉnh thuốc dựa vào kết quả cấy và đáp ứng lâm sàng.
Viêm phổi hít mắc phải ở cộng đồng
Trên bệnh nhân nghi ngờ cao như nuốt khó, thay đổi nhận thức, hình ảnh học phù hợp (đông đặc phổi đặc trưng hoặc tổn thương kính mờ), và/hoặc dấu hiệu nhiễm kỵ khí (thở hôi, bệnh nha chu hay răng miệng nặng, vệ sinh răng miệng kém). Chúng tôi đề nghị ngoài phủ các tác nhân hay gặp trong viêm phổi mắc phải cộng đồng (eg, S. pneumoniae) thì nên thêm vào kháng sinh chống kỵ khí. Khuyến cáo của chúng tôi khác với khuyến cáo của IDSA, họ không phủ kỵ khí khi không có ap xe phổi hoặc tràn mủ màng phổi.
Khi lâm sàng không có nghi ngờ gì, nhìn chung là chúng tôi sẽ điều trị như phác đồ điều trị viêm phổi cộng đồng chuẩn. Lưu ý, không có nghiên cứu nào so sánh phác đồ có phủ kỵ khí hay không có phủ kỵ khí.
Bảng 1: Lựa chọn kháng sinh trên bệnh nhân viêm phổi hít mắc phải cộng đồng
Kháng sinh
Kháng sinh thay thế
Bình luận
Ngoại trú (không nguy cơ
kháng thuốc *)
Amoxicillin- clavulanate (eg, 875
mg/125 mg uống 2 lần/ngày hoặc 2000 mg/125 mg tác dụng kéo dài uống 2 lần/ngày )
Moxifloxacin (là thuốc thay thế hoặc khi muốn phủ các tác nhân không điển hình)
Hoặc
Clindamycin
Chúng tôi thường không phủ các chủng không điển hình với kháng sinh nhóm Macrolide hay doxycycline
Nội trú
Nhẹ
Ampicillin- sulbactam
Ceftriaxone
hoặc
chúng tôi thích phác đồ này
hơn những phác
(không suy hô hấp hay huyết
động)
(1.5 to 3 g
mổi 6 giờ)
Cefotaxime
Cộng với
Metronidazole
đồ có Cephalosporin, vì nó phủ kỵ khí tốt hơn
Nặng (suy hô hấp hay huyết động)
Imipenem, Meropenem, hoặc Piperacillin- tazobactam
Các thuốc này phủ tốt tất cả kỵ khí cũng như hầu hết trực khuẩn Gram âm ái khí (nhóm carbapenems sẽ hơn
piperacillin- tazobactam)
Phủ thêm Pseudomonas và MRSA nếu bệnh nhân có
nguy cơ *
* xem bảng 2
Các phác đồ thay thế dựa trên các dữ liêu hạn chế trong phòng thí nghiệm, đó là liệu pháp kết hợp với Metronidazole (500mg uống/truyền 3 lần/ngày) cộng Amoxicillin hoặc Penicillin hoặc Ceftriaxone (1-2g tĩnh mạch, một lần/ngày)
Metronidazole không nên sử dụng đơn trị vì khả năng thất bại 50% trong điều trị kỵ khí nhiễm trùng phổi màng phổi.
Bảng2 : Các yếu tố nguy cơ viêm phổi cộng đồng gây ra bởi MRSA và Pseudomonas
MRSA
Pseudomonas
Các yếu tố nguy cơ cao
Nhiễm MRSA trước đó
Nhiễm Pseudomonas
trước đó
Phát hiện cầu khuẩn – Gram dương thành đám trong mẫu soi đàm
chất lượng
Phát hiện trực khuẩn – Gram âm hình que trên mẫu soi đàm chất
lượng
Trong 3 tháng có nhập
viện sử dụng kháng sinh tĩnh mạch
Các yếu tố nghi
ngờ khác
Nhập viện hay sử dụng kháng sinh gần đây
Nhập viện gần đây hoặc ở lâu trong các trung tâm chăm sóc
sức khỏe
Bệnh giống cúm gần
đây
Sử dụng kháng sinh
gần đây bất kể loại nào
Viêm phổi hoại tử
Hay tái phát đợt cấp COPD phải dùng corticoid và/hoặc
kháng sinh
Tràn mủ màng phổi
Bệnh cấu trúc phổi (xơ
phổi, khí phế thủng)
Suy giảm miễn dịch
Suy giảm miễn dịch
Các yếu tố nguy cơ thường trú MRSA:
Bệnh thận g/đ cuối
Sống môi trường đông đúc chật chội
Sử dụng thuốc tiêm truyền
Chơi các môn thể thao tiếp xúc nhiều
Đồng tính nam
Viêm phổi hít măc phải tại bệnh viện hoặc từ chăm sóc y tế
Với loại này, thì các mầm bệnh ái khí, đặc biệt là các trực khuẩn Gram âm, S.aureus nhì chung sẽ chiếm phần phổ biến và đóng vai trò quan trọng hơn so với các mầm bệnh kỵ khí. Trong hầu hết các bệnh nhân, điều trị nhắm vào các bệnh nguyên này theo phác đồ viêm phổi bệnh viện đã đưa ra là đã đủ.
Lược đồ 1: Điều trị phác đồ kinh nghiệm trên bệnh nhân viêm phổi mắc phải bệnh viện (không thở máy)và chức năng thận bình thường
Bệnh nhân có các yếu tố nguy cơ tử vong :
Cần hổ trợ thông khí do viêm phổi
Sốc nhiễm trùng
Yes
No
Bệnh nhân có sử dụng kháng sinh tĩnh mạch trong vòng 90 ngày trƣớc không?
Yes
No
Yes
Có nguy cơ nhiễm Gram âm hay không: ( bệnh cấu trúc phổi, hoặc nhuộm Gram với mẫu đường hô hấp thấy nhiều và ưu thế trực khuẩn Gram âm)
No
Yes
Bệnh nhân có một trong các yếu tố nhiễm MRSA không:
Điều trị trong một đơn vị mà >20% S.aureus được phân lập kháng Methicillin.
Điều trị trong một đơn vị mà tần suất lưu hành MRSA chưa được biết
Bệnh nhân có một trong các yếu tố nhiễm MRSA không:
Điều trị trong một đơn vị mà >20% S.aureus được phân lập kháng Methicillin.
Điều trị trong một đơn vị mà tần suất lưu hành MRSA chưa được biết
No
Yes
No
Một trong các lựa chọn sau: *
Piperacillin – tazobactam tĩnh mạch mổi 6h
Cefepime 2g tĩnh mạch mổi 8h
Levofloxacin 750mg
tĩnh mạch mổi 24h
Một trong các lựa chọn sau:
Piperacillin – tazobactam tĩnh mạch mổi 6h
Cefepime 2g tĩnh mạch mổi 8h
Ceftazidime 2g tĩnh mạch mổi 8h
Levofloxacin 750mg tĩnh mạch mổi 24h
Ciprofloxacin 400mg tĩnh m ạch mổi 8h
Aztreonam 2g tĩnh mạch mổi 8h
Thêm vào:
Vancomycin
Linezolide
Một trong các lựa chọn sau:
Piperacillin – tazobactam tĩnh mạch mổi 6h
Cefepime 2g tĩnh mạch mổi 8h
Ceftazidime 2g tĩnh mạch mổi 8h
Imipenem 500mg tĩnh mạch mổi 6h
Meropenem 1g tĩnh mạch mổi 8h
Aztreonam 2g tĩnh mạch mổi 8h
Thêm vào một trong số:
Amikacin
Gentamycin
Tobramycin
Levofloxacin
Ciprofloxacin
Azrtreonam (nếu không thể lựa chọn các thuốc trên)
Một trong các lựa chọn sau:
Piperacillin – tazobactam tĩnh mạch mổi 6h
Cefepime 2g tĩnh mạch mổi 8h
Ceftazidime 2g tĩnh mạch mổi 8h
Imipenem 500mg tĩnh mạch mổi 6h
Meropenem 1g tĩnh mạch mổi 8h
Aztreonam 2g tĩnh mạch mổi 8h
Thêm vào một trong số:
Amikacin
Gentamycin
Tobramycin
Levofloxacin
Ciprofloxacin
Azrtreonam (nếu không thể lựa chọn các thuốc trên)
Thêm vào một trong số
Vancomycin
Linezolide
Dĩ nhiên, chúng tôi sẽ thêm kháng sinh chống kỵ khí trong các tình huống nguy cơ cao nhiễm kỵ khí (vd: tình trạng vệ sinh răng miệng kém, áp xe phổi và tràn mủ màng phổi đi kèm, hoặc ngày càng nặng lên trên lâm sàng mặc dù đã điều trị kháng sinh chống ái khí phù hợp). Khi cần phải điều trị kỵ khí hay các trực khuẩn Gram âm ái khí kháng thuốc (vd những người đã sử dụng kháng sinh đường tiêm truyền
trong vòng 90 ngày trước). Chúng tôi đề nghị sử dụng một Carbapenem (imipenem, meropenem) hoặc piperacillin-tazobactam, do các thuốc này phủ tất cả các chủng kỵ khí cũng như hầu hết các trực khuẩn Gram âm ái khí (carbapenems tốt hơn piperacillin- tazobactam). Trước khi cấy và có trong tay các kết quả nhạy, các bệnh nhân nghi ngờ nhiễm MRSA nên được khởi trị thêm kháng sinh chống MRSA như Vancomycin hay Linezolide , nhưng nếu sau đó không phát hiện MRSA thì các kháng sinh này nên ngưng.
Trƣờng hợp bệnh nhân dị ứng với Penicillin
Với các bệnh nhân ngoại trú, nếu có dị ứng với Penicillin thì moxifloxacin (400 mg, uống 1 lần/ngày) là một lựa chọn phù hợp, clindamycin (300 to 450 mg uống mổi 8h) là lựa chọn thay thế, mặc dù nó đồng hành với nguy cơ nhiễm Clostridioides difficile
Với các bệnh nhân nội trú mà có thể sử dụng Cephalosporin, có thể chọn kết hợp ceftriaxone (1 or 2 g tĩnh mạch 1lần/ngày) hoặc cefotaxime (1 or 2 g tĩnh mạch mổi 8h) cộng với metronidazole (500 mg mổi 8h). Mặc dù Cephalosporin không có nghiên cứu trên bệnh nhân viêm phổi hít, nhưng dựa trên hiệu quả đã được chứng minh trên viêm phổi cộng dồng, chúng được mong đợi sẽ có hiệu quả trên viêm phổi hít khi kết hợp Metronidazole. Carbapenem có thể sẽ là một sự thay thế hợp lý trên các bệnh nhân không cần dùng kháng sinh phổ rộng hơn.
Các kháng sinh khác
Moxifloxacin có hiệu quả chống lại kỵ khí khi được thử nghiệm trong môi trường in vitro. Nhưng không có đủ nghien cứu được thực hiện với các bệnh nhân viêm phổi hít, và vài dữ liệu đã gợi ý khả năng ngày càng cao các mầm bệnh kỵ khí kháng Moxifloxacin. Thêm nữa,
sử dụng kháng sinh nhóm Fluoroquinolon sẽ đi cùng nguy cơ cao nhiễm C. difficile hơn la sử dụng các kháng sinh nhóm khác.
Các nhóm thuốc kháng sinh khác được sử dụng điều trị nhiễm trùng phổi gồm: macrolides, tetracyclines, and cephalosporins thì hiện nay, trên bệnh nhân viêm phổi hít vẫn chưa được nghiên cứu ở tầm hệ thống.
Thời gian điều trị và chuyển sang kháng sinh đƣờng uống
Thời gian điều trị viêm phổi hít nhìn chung vẫn chưa được nghiên cứu tốt. Thông thường, thời gian điều trị viêm phổi hít mà không có các biến chứng áp xe hay tràn mủ màng phổi là 5 ngày đối với viêm phổi hít mắc phải cộng đồng và 7 ngày với viêm phổi hít mắc phải bệnh viện. Thời gian ngắn hơn cso thể cũng hiệu quả nhưng chưa được nghiên cứu tốt. Bệnh nhân sẽ được chuyển sang kháng sinh đường uống khi lâm sàng cải thiện, huyết động ổn định, có thể dung nạp đường uống, và chức năng ống tiêu hóa bình thường. Lựa chọn thích hợp cho hầu hết các bệnh nhân sẽ là amoxicillin-clavulanate (875 mg uống 2 lần/ngày). Với các bệnh nhân nếu dị ứng nặng với Penicillin moxifloxacin (400 mg 1 lần/ngày) hoặc clindamycin (450 mg uống 3 lần/ngày) có thể được sử dụng.
Bệnh nhân có tràn dịch màng phổi nên được dẫn lưu để loại trừ tràn mủ, mà đây thường là biến chứng của nhiễm kỵ khí. Bệnh nhân có biến chứng apxe phổi thì thường cần phải kéo dài thời gian điều trị kháng sinh lâu hơn, thông thường là cho đến khi trên hình ảnh học trở lại bình thường hoặc cải thiện rõ rệt.
Vài bệnh nhân ban đầu được cho là viêm phổi hít vi khuẩn nhưng thật ra họ viêm phổi hóa chất (dịch dạ dày), sẽ là phù hợp để bạn thử ngưng kháng sinh khi thấy các triệu chứng cơ năng và thực thể cải thiện quá nhanh.
Hiệu quả
Nhiều kháng sinh đã được tìm thấy là có hiệu quả trên viêm phổi hít vi khuẩn, bao gồm ampicillin-sulbactam, amoxicillin-clavulanate, moxifloxacin, clindamycin, imipenem, và penicillin với metronidazole.
Một nghiên cứu ngẫu nhiên đánh giá hiệu quả của các kháng sinh clindamycin (600 mg 2 lần/ngày), ampicillin-sulbactam (nửa liều , 1.5 g twice daily), ampicillin-sulbactam (full liều, 3 g twice daily), or
imipenem (500 mg 2 lần/ngày) trên 100 bệnh nhân lớn tuổi nhập viện với viêm phổi hít. Tất cả các thuốc cho thấy hiệu quả tương đương nhưng Clindamycin cho thấy tỷ lệ thấp của việc tái nhiễm sau điều trị chủng S.aureus kháng Methicillin. Tiêu chảy không được báo cáo là tác dụng phụ nặng nề gì trong nhóm sử dụng Clindamycin, mặc dù đã được biết nó có thể gây ra tiêu chay do C. difficile.
Trong một nghiên cứu mở, ngẫu nhiên, đã so sánh ampicillin- sulbactam với moxifloxacin trên 96 bệnh nhân với viêm phổi hít hoặc áp xe phổi, cải thiện lâm sàng ghi nhận 66.7% ở cả 2 nhóm.
Các thuốc thay thế khác cũng có hiệu quả bao gồm amoxicillin- clavulanate (được nghiên cứu trong áp xe phổi) và Penicillin kết hợp với Metronidazole
Clindamycin đã cho thấy hiệu quả vượt bậc so với penicillin trong điều trị viêm phổi hoại tử và áp xe phổi dựa vào tiêu chí tốc độ và thời gian hạ sốt. Trong một nghiên cứu 37 bệnh nhân với viêm phổi hoại tử hoặc áp xe phổi, tỷ lệ thất bại với điều trị Clindamycin là 15% so với sử dụng penicillin đơn độc là 44%.
Outcomes
Tỷ lệ chữa khỏi viêm phổi hít với sử dụng kháng sinh là 76-88%. Các nhgieen cứu theo dõi lâu dài các bệnh nhân mà sống sót được sau một biến cố viêm phổi hít nặng đã cho thấy vài bệnh nhân sẽ hồi phục hoàn toàn, và trên các bệnh nhân khác thì thấy các dấu hiệu của xơ phổi trên hình ảnh học.
TẮC NGHẼN CƠ HỌC
Trong viêm phổi hít, bệnh nhân có thể hít sặc các chất dạng lỏng hay dạng đặc mà vốn dĩ bản thân vật chất đó không gây ra độc cho phổi, nhưng có thể gây tắc nghẽn đường thở hoặc phản xạ đóng đường thở.
Hít sặc các dịch lỏng – Các loại dịch điển hình hay hít sặc mà bản chất chúng không gây độc cho phổi gồm:
Saline
Barium
Hầu hết các dịch tiêu hóa gồm nước
Dịch dạ dày với PH trên 2.5
Dạng được quan sát thấy thường xuyên nhất của hít sặc chất lỏng mà gây ra những tắc nghẽn cơ học đơn giản là trên các nạn nhân của đuối nước. Các bệnh nhân mà có nguy cơ cho việc tắc nghẽn cơ học đường thở với hít sặc là các bệnh nhân có khiếm khuyết về thần kinh chẳng hạn như: không cong phản xạ ho, hay suy giảm nhận thức.
Người bị hít sặc được chứng kiến thấy sẽ được điều trị bằng cách cho nằm ở vị trí đầu nghiêng qua một bên và hút sạch hầu họng; hút khí quản cũng nên làm nhưng phải có sẵn ổng nội khí quản đã được đặt. Nếu kiểm tra hình ảnh học sau đó không nhìn thấy các tổn thương mới, thì không cần điều trị gì thêm nữa, ngoại trừ các biện pháp nhằm phòng ngừa sẽ lại bị hít sặc sau đó nữa. Với các bệnh nhân trong nội viện, cách phòng ngừa hít sặc quan trong nhất là tư thế, có thể ngồi dựa cao một phần hay ngồi thẳng, đặc biệt là lúc ăn.
Hít sặc các hạt có tính chất rắn
Độ nặng của tắc nghẽn hô hấp sẽ phụ thuộc vào kích thước tương đối của vật bị hít sặc và kích thước của đường thở dưới. Hít sặc các chất ngoại lai thường gặp ở trẻ 1-3 tuổi và người già. Các chất thường được phát hiện là: đậu phộng, các thức ăn rau củ quả, các vật không hữu cơ, và răng. Các thức ăn rau củ quả bao gồm cả hạt đậu phộng, là một vấn đề thật sự, bởi vì khi chụp Xquang thông thường sẽ không phát hiện được.
Hậu quả lâm sàng như thế nào sẽ tùy thuộc vào mức độ tắc nghẽn. Các dị vật lớn nếu kẹt ở hầu hay khí quản sẽ gây ra suy hô hấp đột ngột, tím tái, và tắc âm, có thể đưa đến một cái chết nhanh chóng nếu dị vật không được lấy ra. Hiện tượng này thi thoảng sẽ được gọi là “café coronary syndrome – hội chứng mạch vành café”, bởi vì các triệu chứng sẽ mô phỏng giống như các triệu chứng của nhồi máu cơ tim và thường xảy ra tại một buổi ăn tối ở các nhà hàng. Cách điều trị được đề nghị là kỹ thuật Heimlich (xem hình)
Hít sặc các chất với kích thước nhỏ hơn thường ít gây ra tắc nghẽn nặng nề. Các bệnh nhân này thường nhập viện với than phiền là ho và hình ảnh học lồng ngực sẽ cho thấy hình ảnh xẹp phổi, khí phế thủng do tắc nghẽn với đẩy lệch tim và nâng cơ hoành. Khi tắc nghẽn một phần nào đó của phổi, thì có thể nghe thất tiếng khò khè ở một bên.
Với các bệnh nhân mà không thể khạc dị vật ra được, điều trị ban đầu thường là lấy dị vật với ống soi phế quản có thể mềm hoặc cứng. Bội nhiễm vi khuẩn là một biến chứng rất thường gặp khi tắc nghẽn kéo dài trên 1 tuần. Mầm bệnh hay gặp sẽ là các chủng kỵ khí từ đường hô hấp trên.
VIÊM PHỔI LIPOID
Là một loại viêm phổi thì thường xảy ra khi bệnh nhân hít phải các loại dầu khoáng, được sử dụng điều trị cho các bệnh nhân bị bón hoặc các bệnh nhân khô mủi..Các nguyên nhân khác có thể là do hít sặc phải các loại dầu công nghiệp. Hậu quả sau khi hít sặc là một đáp ứng viêm với sưng phù khu trú và xuất huyết trong phế nang hoặc tạo “một khối paraffinoma” với lượng dầu hít sặc được bọ trong một mô sợi (xem hình – viêm phổi lipoid trên CT-scan- mủi tên vàng)
Chẩn đoán viêm phổi lipid phần lớn sẽ dựa vào CT ngực và bệnh sử có tiếp xúc với dị chất. CT ngực có thể thấy hình ảnh đám kính mờ, dày các vách gian tiểu thùy, hình ảnh lát đá, và hình
ảnh khí phế quản đồ. Nếu vùng đông đặc có mật độ mỡ trên CT (<-30 đơn vị Hounsfield) thì đó là một đặc điểm đặc trưng.
Rửa phế quản phế nang (Bronchoalveolar lavage (BAL)) thường được thực hiện khi muốn đánh giá nhiễm trùng và ác tính. (xem hình)
Kỹ thuật Bronchoalveolar lavage (BAL)
Việc điều trị cho bệnh lý này tập trung vào loại bỏ yếu tố tiếp xúc. Nhiều bệnh nhân hồi phục tốt mà không cần điều trị gì xa hơn. Trên các bệnh nhân bệnh nặng, thử sử dụng glucocorticoid toàn thân có thể sẽ là một lựa chọn hợp lý, mặc dù đáp ứng điều trị rất hỗn tạp và khác nhau giữa các nghiên cứu.
PHÒNG NGỪA
Một loạt các biện pháp can thiệp đã được đưa ra để phòng ngừa hít sặc, đặc biệt trên các bệnh nhân giá lớn tuổi hay các bệnh nhân tai biến, nhưng cho đến nay dữ liệu hỗ trợ cho các biện pháp này vẫn còn ít:
Semi-recumbent position (nằm 30-45 độ)
Enteral feeding: ống mở dạ dày qua da hay ống thông mủi-dạ dày sẽ hiệu quả trong việc cung cấp dinh dưỡng , nhưng nghiên cứu cho thấy khoogn là mgiảm tỷ lệ viêm phối hít so với cho ăn qua đường miệng thông thường.
Đánh giá nuốt và phát âm: Với các bệnh nhân suy giảm khả năng nuốt như các bệnh nhân sau tai biến hay các bệnh nhân đặt nội khí quản/ thở máy, đánh giá nuốt và lời nói cần được thực hiện cẩn thận. Khi việc đánh giá không thể thực hiện, test
nuốt nước có thể giúp xác định các bệnh nhân tăng nguy cơ hít sặc, mặc dù test này có tỷ lệ dương tính giả cao.
Các chất lỏng đặc với vị trí cằm hạ xuống: chất lỏng đặc có thể tăng độ an toàn khi nuốt nhưng hậu quả là tăng mất nước và giảm độ thưởng thức thức ăn. Một cách thay thế an toàn khác là bệnh nhân vẫn có thể dùng thức ăn lỏng bình thường nhưng với cằm hạ xuống.
TÓM TẮT VÀ CÁC KHUYẾN CÁO
Các hội chứng phổ biến liên quan đến viêm phổi hít bao gồm:
Viêm phổi hóa chất
Viêm phổi vi khuẩn
Tắc nghẽn cơ học
Tất cả các bệnh nhân được quan sát thấy là đã hịt sặc nên ngay lập tức hút sạch vùng hầu họng và khí quản.
Điều trị kháng khuẩn nên được thực hiện sau khi thấy một bệnh nhân hít sặc xuất hiện các triệu chứng giảm oxy mới dai dẳng với các bằng chứng của hiện tượng viêm. Kháng sinh không cần thiết trên các bệnh nhân hít sặc nhưng hồi phục nhanh chóng.
Trong khi các vi khuẩn kỵ khí thường gặp trong viêm phổi hít, nhưng nên lưu ý trong nhiều nghiên cứu vi khuẩn ái khí vẫn nổi trội hơn. Do vậy, khá khó để quyết định khi nào nên sử dụng thêm kháng sinh nhắm trúng đích vi khuẩn kỵ khí trong khởi trị kinh nghiệm. Nhìn chung, chúng tôi sẽ quyết định dựa vào: độ nghi ngờ hít sặc, độ nặng của bệnh, bối cảnh lâm sàng (cộng đồng hay trong bệnh viện), diễn tiến lâm sàng của bệnh nhân.
Với các bệnh nhân mà bức tranh lâm sàng gợi ý cao là viêm phổi hít cộng đồng ( có người chứng kiến, các yếu tố nguy cơ hít sặc, hình ảnh học phù hợp, thời gian bán cấp, thở hôi), chúng tôi lựa chọn liệu pháp kháng sinh mà sẽ phủ được luôn cả các chủng gây bệnh tồn tại sẵn trong vùng miệng, bao gồm cả kỵ khí. Các liệu
pháp kháng sinh chuyên biệt sẽ biến thiên tùy vào độ nặng của bệnh, yếu tố nguy cơ của các bệnh nguyên kháng thuốc và tình trạng dị ứng kháng sinh.
Với bệnh nhân ngoại trú, chúng tôi đề nghị sử dụng amoxicillin-clavulanate (eg, 875 mg/125 mg 2 lần/ngày hoặc viên kéo dài 2000 mg 2 lần/ngày) (Grade 2C). Chúng tôi thường không thêm kháng sinh nhóm macrolide hay doxycycline trong các bệnh nhân hít sặc. Moxifloxacin là kháng sinh thay thế được chấp nhận khi bệnh nhân không thể sử dụng amoxicillin/clavulanate, hoặc khi điều trị bổ sung cho các mầm bệnh không điển hình được chỉ định, nhưng hiện nay vẫn còn ít nghiên cứu.
Với các bệnh nhân cần nhập viện nhưng không nặng, chúng tôi đề nghị sử dụng ampicillin-sulbactam (1.5–3 g mổi 6h) hơn là sử dụng kháng sinh nhóm Cephalosporin, vì kết quả liên quan đến việc phủ kỵ khí tốt hơn. Mở rộng liệu pháp có thể cần trên các bệnh nhân mức độ nặng hoặc các yếu tố nguy cơ nhiễm Pseudomonas, methicillin resistant Staphylococcus aureus (MRSA) và các bệnh nguyên kháng thuốc.
Với các bệnh nhân viêm phổi hít bệnh viện, chúng tôi tập trung vào vi khuẩn ái khí nhiều, bởi vì nhìn chung chúng là các mầm bệnh quan trọng hơn kỵ khí, sử dụng phác đồ điều trị HAP tiêu chuẩn. Dĩ nhiên, với các bệnh nhân hít sặc được chứng kiến, nhiều bệnh răng miệng, hình ảnh học gợi ý hoại tử, hoặc thất bại với phác đồ không phủ kỵ khí, chúng tôi đương nhiên sẽ thêm kháng sinh chống kỵ khí vào. Các lựa chọn hợp lý trong các tình huống như vầy gồm: imipenem, meropenem, or piperacillin-tazobactam. Mở rộng có thế cần trên các bệnh nhân có nguy cơ/ bằng chứng của nhiễm MRSA hoặc các mầm bệnh kháng thuốc khác.
Với các bệnh nhân ngoại trú mà có dị ứng nặng với Penicillin, moxifloxacin (400 mg, một lần/ngày) sẽ là lựa chọn phù hợp, Clindamycin (300 to 450 mg uống mổi 8h) là một thay thế, mặc dù nó sánh bước với nguy cơ nhiễm Clostridioides difficile. Với các bệnh nhân nhập viện mà dị ứng Penicillin với nghi ngờ nhiễm kỵ khí, liệu pháp thay thế gồm kết hợp một Cephalosporin thế hệ 3,4,5 cộng Metronidazole (500mg dùng 3 lần/ngày), hoặc Carbapenem, tùy thuộc vào loại và độ nặng của các phản ứng với beta-lactam. Metronidazole thì được yêu thích sử dụng hơn so với Clindamycin vì Clindamycin có nguy cơ nhiễm C. difficile, nhưng Metronidazole không nên sử dụng đơn trị.
Trên các bệnh nhân khởi đầu kháng sinh tĩnh mạch có thể chuyển sang uống khi lâm sàng cải thiện, huyết động ổn định, có thể uống và chức năng hấp thu đường tiêu hóa bình thường. Với các bệnh nhân như thế, chúng tôi khuyên amoxicillin- clavulanate (875 mg uống 2 lần/ngày)
Thời gian điều trị bao lâu vẫn chưa được nghiên cứu tốt. Nhưng thông thường là 05 ngày với viêm phổi hít cộng đồng và 07 ngày với viêm phổi hít bệnh viện. Khi ban đầu bạn sử dụng kháng sinh viêm phổi hít vi khuẩn, nhưng thật ra bệnh nhân viêm phổi hít hóa chất, thì thích hợp để ngưng kháng sinh khi bạn thấy các triệu chứng cơ năng và thực thể cải thiện quá nhanh và quá ngoạn mục.
Khi hít sặc các chất (lỏng/đặc) mà có thể gây tắc nghẽn đường thở và bệnh nhân không thể tự khạc thì nội soi phế quản là cần thiết.
Các nhiễm trùng trong khoang bụng, bùng phát lên bởi một hiện tượng viêm hoặc các vấn đề gây rối loạn ống dạ dày – ruột. Ít phổ biến hơn, là chúng cũng có thể bắt nguồn từ các nguyên nhân thuộc về hệ niệu và hệ phụ khoa. Nhiễm trùng ổ bụng thì thường là nhiễm đa khuẩn, gây ra biến chứng áp xe trong ổ bụng hoặc viêm phúc mạc thứ phát, mà nhìn chung có thể khu trú hoặc toàn thể.
Tiếp cận việc lựa chọn kháng sinh và điều trị nhiễm trùng ổ bụng ở người trưởng thành sẽ được thảo luận trong bài này.
VI SINH
Nhiễm trùng ổ bụng thường bùng lên khi hàng rào chất nhày bảo vệ bị phá vỡ và cho phép các chủng vi khuẩn tồn tại bình thường đi vào khoang bụng. Phổ vi khuẩn chính xác sẽ lệ thuộc vào vị trí chính xác của ruột (vd ruột non hay ruột già).
Các chủng vi khuẩn của hệ đại tràng là các chủng phổ biến gây ra nhiễm trùng ở bụng, phản ánh tần suất của những bệnh liên quan ở vị trí giải phẫu này, bao gồm: viêm ruột thừa, viêm túi thừa, carcinoma đại tràng, bệnh viêm ruột và phẫu thuật ruột trước đó. Do đó, các vi khuẩn nổi bật trong các loại nhiễm trùng như vầy là các dạng chủng Coli (vd Escherichia coli, Klebsiella spp, Proteus spp, and Enterobacter spp), streptococci, enterococci, và vi khuẩn kỵ khí. Tuy nhiên, trong khoảng hơn 400 chủng sống trong đại tràng, chỉ 4-6 chủng đã được phát hiện gây nhiễm trùng ổ bụng. Chiếm ưu thế nhất là Bacteroides fragilis and E. coli. Các yếu tố tạo nên hiện tượng nêu trên là do khả năng có giới hạn của các phòng xét nghiệm không thể cấy ra tất cả các chủng được cũng như khả năng thích nghi đặc biệt của các chủng vi khuẩn đặc biệt để sống sót ở một môi trường mới. Ví dụ như khả năng chỉ cần tiêu thụ một lượng nhỏ oxygen đã giúp cho B. fragilis nổi lên như một bệnh nguyên kỵ khí gây nhiễm trùng ổ bụng. Các cuộc thử nghiệm gây nhiễm trùng huyết từ nhiễm trùng ổ bụng trên động vật đã cho thấy bệnh nguyên là do cả các chủng kỵ khí và các chủng dạng Coli, mặc dầu vai trò chủa chúng khác nhau, các vi khuẩn dạng Coli thì có vai trò gây nhiễm trùng máu giai đoạn sớm còn với các chủng kỵ khí gây biến chứng abcess ở giải đoạn trễ hơn.
Sự thủng của ruột gần, như là thủng do loét dạ dày, kết quả tạo ra các nhiễm trùng với các chủng vi sinh rất khác, chủ yếu là các chủng thuộc hệ tiêu hóa trên. Các chủng vi sinh nổi trội trong các bệnh cảnh này thường là ái khí và các vi khuẩn Gram dương kỵ khí hoặc nấm Candida spp.
Việc đã điều trị trước đó hay đã từng nhập viện sẽ dẫn đến thay đổi dòng khuẩn trong ổ bụng, vì vậy, nhiễm trùng ổ bụng trong các bệnh cảnh như vầy khả năng cao sẽ là nhiễm các chủng bệnh viện như Pseudomonas aeruginosa hay các bệnh nguyên kháng thuốc khác. Enterococci là bệnh nguyên nổi trội nhất gây nhiễm trùng liên qua đến chăm sóc y tế, đặc biệt là nhiễm trùng hậu phẫu, ngược với khi nhiễm trong cộng đồng, chúng cũng thường được cấy ra nhưng thường không phải là bệnh nguyên quan trọng gây bệnh. Candida spp cũng phổ biến, ở cả ruột non và ruột già, chúng lưu hành trên các bệnh nhân nhiễm trùng bệnh viện, những người với vấn đề miễn dịch, những người đã từng sử dụng kháng sinh trước đó hoặc nhiễm trùng tái phát.
KIỂM SOÁT NGUỒN NHIỄM VÀ DẪN LƯU
Can thiệp phẫu thuật và/hoặc dẫn lưu qua da thường cần thiết để điều trị nhiễm trùng ổ bụng. Can thiệp phẫu thuật có thể sẽ cần để đóng một vết hở hay cắt lọc các mô đã hoại tử nhiễm trùng, và dẫn lưu thường cần thiết để làm sạch một ổ áp xe. Khi có thể, dẫn lưu qua da vẫn được lựa chọn nhiều hơn. Hầu hết các thất bại điều trị đều liên quan đến việc thất bại trong việc kiểm soát nguồn nhiễm.
Can thiệp hở hay qua da là cơ hội lý tưởng để thu thập mẫu cho các phân tích vi sinh (nhuộm Gram, cấy tìm ái khí, kỵ khí và nếu có thể tìm luôn nấm). Việc này quan trọng với những bệnh nhân có các ổ áp xe trong ổ bụng hay các bệnh nhân nhiễm trùng đã có biến chứng, với các bệnh nhân đã sử dụng kháng sinh trước đó hay các bệnh nhân nghi ngờ cao là nhiễm các mầm bệnh kháng thuốc. Nhuộm Gram có thể giúp bác sĩ chọn lựa sử dụng kháng sinh sớm chính xác hơn, và đôi khi là công cụ duy nhất nếu cấy không mọc. Việc bơm trực tiếp mẫu vào trong lọ cấy máu có thể tăng lợi ích về vi sinh nhưng cách này có nhiều bất lợi. Nó lấy mất cơ hội nhuộm Gram nếu bác sĩ quên không giữ lại một phần để đem đi nhuộm, và thêm nữa trong các tình huống nhiễm đa khuẩn, việc phát triển cạnh tranh nhau trong lọ cấy máu có thể cản trở việc xác định tất cả các bệnh nguyên quan trọng. Vì vậy, cấy với các phương pháp thường qui khác cũng quan trọng trong các tình huống như vầy.
ĐIỀU TRỊ CÁC THUỐC KHÁNG VI SINH (VI KHUẨN, NẤM, PROTOZOA…) THEO KINH NGHIỆM.
Thời gian
Các bệnh nhân mắc bệnh nặng nên nhận được điều trị kháng vi sinh theo kinh nghiệm sớm nhất có thể, lý tưởng nhất là ngay khi mẫu máu và nước tiểu đã được lấy để đem đi cấy. Ở những bệnh nhân với tình trạng không nặng, việc trì hoãn sử dụng kháng sinh cho đến khi mẫu từ ổ nhiễm trong bụng được thu thập và đem đi cấy, có thể là hướng tiếp cận phù hợp để tối ưu hóa việc sử dụng các thuốc trên các chủng vi sinh.
Các phác đồ điều trị
Nhìn chung, các thuốc sử dụng kinh nghiệm trong nhiễm trùng ổ bụng, gồm các thuốc chống lại được: streptococci đường ruột, các chủng dạng Coli, kỵ khí. Các nghiên cứu đánh giá hiệu quả của các loại kháng sinh khác nhau trên các mầm bệnh nêu trên nhìn chung cho hiệu quả tương đương. Thuốc kháng vi sinh đích, và các chỉ định mở rộng phổ kháng vi sinh phụ thuộc vào rất nhiều yếu tố:
Liệu nhiễm trùng ổ bụng là do mầm bệnh cộng đồng hay mầm bệnh liên quan đến các chăm sóc y tế?
Liệu có những yếu tố nguy cơ nào trên bệnh nhân này gây ra nhiễm khuẩn kháng thuốc hay không? (vd như gần đây du lịch đến những nơi lưu hành những chủng vi sinh kháng thuốc cao)
Liệu bệnh nhân có được cân nhắc là có nguy cơ với các kết cục nặng chưa? Những yếu tố nguy cơ mà giúp tiên lượng khả năng bệnh nhân sẽ đi đến một kết cục tệ bao gồm: lớn hơn 70 tuổi, trì hoãn việc điều trị ban đầu > 24 giờ, không thể cắt lọc đủ hoặc không thể kiểm soát ổ nhiễm với dẫn lưu, các bệnh đồng mắc khác (đái
tháo đường kiểm soát kém, sử dụng corticoid liều cao kéo dài, sử dụng các thuốc ức chế miễn dịch, giảm bạch cầu, nhiễm HIV tiến triển, thiếu hụt lympho B hoặc T), rối loạn chức năng cơ quan, mắc các bệnh thuộc về phúc mạc mức độ nặng hoặc viêm phúc mạc toàn thể, giảm albumin máu và tình trạng dinh dưỡng kém.
Những bệnh nhân với nhiễm các chủng cộng đồng và mức độ bệnh từ nhẹ tới trung bình cũng như không có các yếu tố nguy cơ vừa kể trên có thể không cần thiết để sử dụng các thuốc phổ quá rộng. Vì khả năng nhiễm các chủng kháng thuốc thì thấp. Ngược lại, thuốc phổ rộng nên được sử dụng với các bệnh nhân có nguy cơ nhiễm các chủng kháng thuốc hoặc trên những bệnh nhân có các nguy cơ sẽ chuyển thành bệnh nặng và có thể tử vong.
Những yếu tố khác ảnh hưởng lên việc lựa chọn thuốc bao gồm: vị trí và loại nhiễm trùng (vd: kỵ khí Gram âm nhìn chung sẽ không là một mầm bệnh gây bệnh nặng trong các nhiễm trùng phát sinh từ đường tiêu hóa trên), có can thiệp ngoại khoa không, tỷ lệ Enterobacteriaceae kháng thuốc tại địa phương, và khả năng dung nạp của bệnh nhân. Tỷ lệ kháng của Enterobacteriaceae cao rõ ràng ở một số nơi trên thế giới bao gồm: đông á, châu phi, trung á và đặc biệt rất cao ở Đông Nam Á.
Các khuyến cáo nhìn chung vẫn không có nhiều thay đổi trong các hướng dẫn của Surgical Infection Society (SIS) and the Infectious Diseases Society of America (IDSA) trong các điều trị nhiễm trùng ổ bụng đã có biến chứng, mà đã được công bố rộng rãi vào năm 2010. SIS thì đã cho ra bản update vào năm 2017, còn IDSA thì vẫn đang xem lại các hướng dẫn cũng mình. Có vài khác biệt của bản update về dữ liệu nhạy thuốc trong phòng thí nghiệm. ví dụ như trước đây clindamycin and cefotetan được chấp nhận cho các loại nhiễm trùng ổ bụng gồm luôn cả kỵ khí, thì lại không được sử dụng nữa vì liên quan để khả năng tăng kháng thuốc của B. fragilis. Cũng được nêu trong các hướng dẫn đó, thuốc ampicillin-sulbactam cũng không được khuyến cáo sử dụng do tỷ lệ kháng cao giữa các chủng E.coli mắc phải ở cộng đồng.
Bảng: Những yếu tố nguy cơ dẫn đến việc cần mở rộng phổ kháng sinh điều trị
Các tình trạng miễn dịch (vd như: đái tháo đường kiểm soát kém, sử dụng corticosteroid mạn tính, sử dụng các thuốc ức chế miễn dịch, giảm bạch cầu, nhiễm HIV tiến triển, thiếu
hụt lympho B hoặc T)
Bệnh nặng (vd nhiễm trùng huyết)
Viêm phúc mạc lan tỏa
Trì hoãn việc điều trị ban đầu (kiểm soát ổ nhiễm) > 24 giờ
Không thể dẫn lưu hay cắt lọc tốt
Các yếu tố liên quan đến khả năng nhiễm các mầm bệnh kháng thuốc
Nhiễm do chăm sóc y tế
Du lịch đến các vùng có tỷ lệ cao các mầm bệnh kháng kháng sinh* trong vòng vài tuần trước khi khởi phát hay được kê kháng sinh tịa thời điểm đi du lịch
Đã biết các mầm bệnh kháng thuốc
*tỷ lệ cao đề kháng với kháng sinh đã được báo cáo ở các vùng như: đông á, châu phi, trung á và đặc biệt rất cao ở Đông Nam Á.
Nhiễm các chủng cộng đồng – nguy cơ thấp
Với các bệnh nhân nhiễm trùng ổ bụng mắc phải cộng đồng từ mức độ nhẹ đến trung bình (ví dụ thủng ruột thừa hoặc abcess ruột thừa) và không có nguy cơ cho đề kháng kháng sinh và thất bại điều trị, sử dụng thuốc phủ Streptococci, Enterobacteriaceae – không kháng, và (trong hầu hết các ca) kỵ khí là đã đủ. Điều trị kháng sinh kinh nghiệm như nêu sau đây là phù hợp:
Bảng 1: sử dụng kháng sinh nhiễm khuẩn ổ bụng mắc phải cộng đồng – nguy cơ thấp
Liều
Liệu pháp đơn trị
Ertapenem
1 g tĩnh mạch – 1 lần/ngày
Piperacillin-tazobactam
3.375 g tĩnh mạch – mổi 6h
Liệu pháp kết hợp với Metronidazole
Một trong số cách sau:
Cefazolin
1 to 2 g tĩnh mạch – mổi 8h
HOẶC
Cefuroxime
1.5g tĩnh mạch – mổi 8h
HOẶC
Ceftriaxone
2g tĩnh mạch – một lần/ngày
HOẶC
Cefotaxime
2g tĩnh mạch – mổi 8h
HOẶC
Ciprofloxacin
400mg tĩnh mạch – mổi 12h
500mg uống – mổi 12h
HOẶC
Levofloxacin
750mg tĩnh mạch/uống – một lần/ngày
CỘNG VỚI
Metronidazole*
500mg tĩnh mạch/uống – mổi 8h
+ bảng kháng sinh này dùng cho người trưởng thành với chức năng thận bình thường
* cho hầu hết các nhiễm trùng đường mật không biến chứng mức độ nhẹ đến trung bình, thêm Metronidazole là không cần thiết.
Một thuốc đường uống (vd fluoroquinolone cộng metronidazole hoặc đơn trị với amoxicillin-clavulanic acid) là một lựa chọn điều trị kinh nghiệm hợp lý với các nhiễm trùng cộng đồng mức độ nhẹ – trung bình và không có yếu tố nguy cơ nhiễm các chủng kháng thuốc và khi độ nhạy của E.coli với thuốc vẫn cón vượt trên 90%
trong cộng đồng và bệnh viện. Nếu dưới 90%, vẫn có thể sử dụng nhưng bác sĩ nên cân nhắc trên từng ca về khả năng thất bại.
Các hướng dẫn của SIS và IDSA 2010 đã liệt kê các thuốc cefoxitin, moxifloxacin, and tigecycline để điều trị. Nhưng nhìn chung, nên tránh dùng các thuốc này vì tỷ lệ kháng trong phòng thí nghiệm của Bacteroides spp và các dạng Coli ngày càng
tăng cao. Còn với tigecycline, người ta thấy có môi liên hệ về tăng tỷ lệ tử vong cao hơn so với các kháng sinh khác trong điều trị các loại nhiễm trùng khác bao gồm luôn cả nhiễm trùng ổ bụng.
Các hướng dẫn của SIS 2017 đã đưa cefoperazone-sulbactam như là một kháng sinh thay thế, nhưng nên tránh dùng thuốc này để tránh tình trạng sẽ kháng thuốc sau đó, vì thuốc này có thể phủ luôn Pseudomonas loại kháng thuốc, mà nhìn chung là không cần thiết cho nhóm bệnh nhân nhiễm cộng đồng.
Nhiễm các chủng cộng đồng – nguy cơ cao
Với các tường hợp nhiễm cộng đồng từ mức độ nặng hoặc trên các bệnh nhân nguy cơ cao diễn tiến nặng hơn hoặc nguy cơ cao sẽ kháng thuốc, dùng kháng sinh phổ rộng thì được khuyến cáo. Nhìn chung, chúng tôi dùng thuốc phổ rộng chống được Gram âm bao gồm luôn cả P. aeruginosa và Enterobacteriaceae mà đã kháng với các kháng sinh nhóm Cephalosporin không pseudomonas, thêm vào các kháng sinh chống lại streptococci đường ruột và (trong hầu hết các ca) các chủng kỵ khí. Với các nhiễm trùng cộng đồng mà đã biết rõ nguồn gốc là từ ổ bụng thì phủ MRSA nhìn chung là không cần thiết.
Bảng 2: sử dụng kháng sinh nhiễm khuẩn ổ bụng mắc phải cộng đồng – nguy cơ cao
Nơi mà tỷ lệ kháng thuốc kháng sinh
<10%
Đơn trị
Imipenem – cilastatin
Meropenem
Doripenem
Piperacillin –tazobactam
Kết hợp
Cefepime
Ceftazidime
Metronidazole
.
Nguy cơ nhiễm chủng sinh ESBL
Imipenem
Meropenem
Không thể sử dụng beta-lactams hoặc carbapenems (dị
Khi kháng sinh nhóm beta-lactams hoặc carbapenems được lựa chọn điều trị cho những trường hợp nặng hay nghi ngờ nhiễm các bệnh nguyên kháng thuốc, chúng tôi có khuynh hướng tích sử dụng chiến lược truyền liều kéo dài (prolonged infusion dosing strategy, được hiểu như truyền với thời gian kéo dài hơn bình
thường) và điều này cũng được tán đồng bởi Hiệp hội phẫu thuật cấp cứu thế giới (World Society of Emergency Surgery (WSES)) (bài truyền Beta-lactam kéo dài là một bài khác)
Nhiễm các chủng liên quan đến chăm sóc y tế
Những bệnh nhân với nhiễm trùng liên quan với liên quan chăm sóc y tế, khả năng kháng thuốc sẽ cao. Do đó, để phủ theo kinh nghiệm các mầm bệnh kháng thuốc, nên thêm các thuốc phủ streptococci và các chủng kỵ khí, phác đồ nên có ít nhất các thuốc kháng sinh chống được trực khuẩn Gram âm phổ rộng (gồm các mầm bệnh P. aeruginosa và Enterobacteriaceae mà kháng với các thuốc kháng sinh nhóm cephalosporins và fluoroquinolones thế hệ thứ 3 không chống Pseudomonas). Chúng tôi cũng thường sử dụng theo kinh nghiệm phác đồ mà gồm kháng sinh chống được enterococci trên những bệnh nhân nhiễm trùng ổ bụng liên quan đến các chăm sóc y tế, đặc biệt là trên những bệnh nhân có nhiễm trùng hậu
phẫu, những người mà đã điều trị Cephalosporin trước đây hoặc điều trị kháng sinh loại khác chọn lọc cho Enterococcus spp, trên bệnh nhân suy giảm miễn dịch, với những bệnh nhân có bệnh mạch máu của tim hoặc các bệnh nhân có vật liệu nhân tạo trong mạch máu.
Bảng 3: lựa chọn kháng sinh trong nhiễm trùng ổ bụng liên quan chăm sóc y yế
Kháng sinh
Kháng sinh
Comment
Thêm
Đơn trị
Meropenem
hoặc
Imipenem- cilastatin hoặc
Piperacillin- tazobactam hoặc
– Doripenem
Chống trực khuẩn Gram âm kỵ khí và ái khí
Kết hợp
Ceftazidime
hoặc
Cefepime
-Metronidazole
Xem xét thêm ampicillin hoặc vancomycin để phủ enterococci (trong lúc chờ
kết quả cấy)
Nếu dị ứng Beta-lactam
hoặc Carbapenem
Vancomycin và
aztreonam và
metronidazole
Bảng 4: các kháng sinh bổ trợ bảng 3 trong những tình huống xuất hiện các yếu tố nguy cơ khác
Nguy cơ nhiễm MRSA
Nguy cơ nhiễm ESBL
Nguy cơ nhiễm Gram âm kháng thuốc
Nguy cơ nhiễm Vancomycin- resistant Enterococcus
(VRE)
Nguy cơ nhiễm nấm Candida spp
Thêm
Thêm
Thêm
Thêm
Fluconazole
Vancomycin
Carbapenem
Aminoglycoside
Linezolid hoặc
hoặc
(imipenem hoặc
hoặc Polymyxin,
Daptomycin
Echinocandin
meropenem)
hoặc các Beta-
(bệnh nặng)
lactam dạng kết
hợp mới
(ceftolozane-
tazobactam hoặc
ceftazidime-
avibactam)
ĐIỀU TRỊ KHÁNG SINH TRÚNG ĐÍCH
Những nguyên lý chung trong việc chọn kháng sinh
Điều trị kháng sinh trúng đích là việc chọn lựa kháng sinh dựa trên kết quả cấy và các xét nghiệm nghi ngờ từ các bệnh phẩm phù hợp. Hầu hết tất cả các phác đồ kháng sinh chống các chủng dạng coli và kỵ khí đều có hiệu quả có thể so sánh.
Trong một phân tích của 40 nghiên cứu ngẫu nhiên về các phác đồ kháng sinh điều trị viêm phúc mạc thứ phát. Tất cả các phác đồ (16 loại khác nhau) cho ra hiệu quả lâm sàng tương đương. Đi sâu hơn vào 16 nghiên cứu sử dụng các phác đồ kháng sinh trên bệnh nhân nhiễm trùng ổ bụng biến chứng: ceftriaxone cộng metronidazole, piperacillin-tazobactam, ertapenem, imipenem, meropenem, ceftolozane-tazobactam cộng metronidazole, and ceftazidime-avibactam cộng metronidazole, đã cho thành công trên lâm sàng chạy từ 75- 97%.
Đánh giá về dữ liệu cấy
Nguồn và thời gian lấy mẫu cấy là tối quan trọng trong đạt được kết quả cấy để hướng dẫn dùng kháng sinh. Cấy nên thực hiện tước khi dùng kháng sinh, từ một vị trí vô trùng. Trong các trường hợp bệnh nặng, kháng sinh cần phải cho ngay lập tức, cấy có thể cân nhắc cấy
sau nhưng phải sớm nhất có thể (vd mọt vài giờ ngay sau khi sử dụng kháng sinh) sẽ có nhiều ý nghĩa hơn là để thời gian trôi qua lâu hơn.
Cấy lại nên được thực hiện sau vài ngày dùng kháng sinh, chú ý, nếu lấy mẫu cấy ở các dẫn lưu mãn tính, có thể cho ra các chủng kháng điều trị hiện tại, nhưng có thể không phải là mầm bệnh chính của bệnh nhân. Chính vì thế, lời khuyên là tránh lấy mẫu ở những nơi đã mạn tính như lổ dò hay dẫn lưu. Và trong tình huống đã lấy mẫu cấy tại những vị trí mạn
tính như đã nêu, thì xem xét kết quả cấy sau đó cần phải kỹ lưỡng trước khi đưa ra quyết định mối liên hệ giữa kết quả cấy và liệu trình kháng sinh đang dùng.
Quản lý kháng sinh
Trong mối quan tâm về bảo tồn hiệu quả kháng sinh cho từng cá thể và cộng đồng. Thu hẹp (xuống thang) phổ kháng sinh nên được thực hiện khi bệnh nhân đã cải thiện và/hoặc kết quả cấy tin tưởng đã có. Những bệnh nhân nguy cơ thấp với nhiễm trùng các chủng cộng đồng, không cần thay đổi điều trị ban đầu nếu đáp ứng điều trị lâm sàng tốt, bất chấp các mầm bệnh không nghi ngờ hay không được điều trị được báo cáo sau đó.
Phủ kỵ khí
Phủ kỵ khí thường được sử dụng liên tục trong suốt liệu trình điều trị kháng sinh, bất kể kỵ khí có mọc hay không sau khi cấy.
Độ nhạy của các chủng kỵ khí hiếm khi được biết rõ vào thời điểm quyết định khởi trị kháng sinh phù hợp, vì đơn giản muốn biết nạy hay không với kỵ khí sẽ mất nhiều thời gian hơn các mầm bệnh khác, các phương pháp phân lập ra kỵ khí trong các phòng thí nghiệm vẫn chưa được chuẩn hóa tốt. Và đánh giá độ nhạy chủ yếu dựa vào giá trị tham chiếu của các xét nghiệm, vị trí ổ nhiễm và các nghiên cứu lâm sàng hiện có.
Ngoài đường uống (tĩnh mạch) so với đường uống
Trên những bệnh nhân có thể dung nạp được bằng đường uống và mầm bệnh không kháng với các kháng sinh đường uống, kháng sinh đường tĩnh mạch có thể chuyển sang kháng sinh uống với điều kiện bệnh nhân đã có cải thiện về lâm sàng. Liệu pháp kháng sinh đường uống được cho là hợp lý bao gồm: Levofloxacin (750 mg uống 1 lần/ngày) hoặc ciprofloxacin (500 mg uống 2 lần/ngày), kèm theo metronidazole (500 mg uống 3 lần/ngày); Hoặc có thể đơn trị với Amoxicillin-clavulanate (875/125 mg uống 2-3 lần/ngày), tùy thuộc vào kết quả
test độ nhạy kháng sinh.
Xem xét các mầm bệnh đặc biệt
Enterococcus spp
Là mầm bệnh khá phổ biến, và thường bị bỏ sót trong các liệu pháp kháng sinh kinh nghiệm với nhiễm trùng các chủng cộng đồng. Chúng tôi đồng thuận với các khuyến cáo từ hội Surgical Infection Society và IDSA rằng việc phủ luôn Enterococcus là không cần thiết trừ khi nó được phát hiện từ kết quả máu hoặc cấy được nó từ vị trí nhiễm trùng.
Candida
Phủ kháng nấm nếu thấy nấm Candida spp mọc từ vị trí cấy vô trùng. Fluconazole là thuốc kháng nấm thích hợp cho Candida albicans; Thuốc kháng nấm nhóm Echinocandin sẽ phù hợp khi có tình trạng Candida kháng Fluconazole và trong các tình huống bệnh nặng trong khi đợi kết quả xác định và các test độ nhạy.
Trực khuẩn Gram âm kháng thuốc
Việc phân lập ra P. aeruginosa, Acinetobacter spp, extended spectrum beta-lactamase (ESBL-mầm bệnh sinh men betalactamase phổ rộng), or carbapenemase-producing Enterobacteriaceae (mầm bệnh Enterococ sinh men carbapenemase), là chắc chắn phải sử dụng các liệu pháp kháng sinh đặc biệt. Các novel cephalosporin-beta-lactamase inhibitor combinations (thuốc Cephalosporin kết hợp ức chế men beta-lactamase thế hệ mới) như ceftazidime-avibactam and ceftolozane-tazobactam, khi dùng chung với Metronidazole để phủ kỵ khí, có thể có vai trò nền tảng trong các nhiễm trùng ổ bụng.
Ceftazidime-avibactam là kháng sinh chống lại Klebsiella pneumoniae sinh carbapenemase (KPC – Klebsiella pneumoniae carbapenemase producing ). Việc điều trị con này sẽ thảo luận ở một bài khác.
Actinomyces
Đây là vi khuẩn kỵ khí Gram dương dạng sợi, phát triển chậm, và là một thành viên trong các chủng vi khuẩn thường trú ở miệng và ống tiêu hóa. Nếu chúng phá vỡ lớp nhày, chúng có thể gây bệnh actinomycosis,là một dạng bệnh viêm hạt không phổ biến, và đôi khi lầm tưởng với các bệnh ác tính bởi sự lan tràn tại chổ xuyên qua các mặt phẳng mô.
Trong ổ bụng nó thường xuất hiện ở vị trí ruột thừa và vùng hồi manh tràng. Điều trị kháng sinh trên bệnh này sẽ mất khá nhiều thời gian (6-12 tháng).
Trên những bệnh nhân nhập viện với các hội chứng điển hình của một ổ áp xe, gây ra bởi các chủng Gram âm và kỵ khí (cấp tính, sốt và sinh lý của nhiễm trùng huyết), việc phân lập ra Actinomyce trên mẫu cấy tại vị trí nhiễm trùng mang một ý nghĩa lâm sàng không hề rõ ràng. Trên những ca như thế, chúng tôi sẽ thêm kháng sinh chống lại Actinomyces (vd: penicillins) vào phác đồ và tiếp tục trong 1-2 tháng, lâu hơn so với liệu trình kháng
sinh kinh điển điều trị nhiễm trùng ổ bụng. Chúng tôi cũng theo dõi sát các triệu chứng nhiễm Actinomyces với ngưỡng thấp của việc thực hiện lặp đi lặp lại các chẩn đoán hình ảnh, nếu có dấu hiệu tái phát bệnh sau khi ngưng kháng sinh.
Hội chẩn với các bác sĩ chuyên khoa nhiễm
Sẽ đặc biệt có ích khi chẩn đoán vẫn chưa rõ ràng, hoặc để nhận lời khuyên về đánh giá kết quả cấy để thu hẹp kháng sinh, và trong các tình huống phức tạp riêng biệt. Các tình huống này gồm: giảm bạch cầu, ghép cơ quan, suy giảm miễn dịch ,dị ứng khán sinh, nhiễm các mầm bệnh từ nước ngoài, bệnh ác tính ổ bụng, bệnh viêm ruột, lổ dò, và béo phì.
Thời gian điều trị
Thời gian phù hợp cho điều trị sẽ phụ thuộc vào việc liệu rằng ổ nhiễm trùng đã được kiểm soát hay chưa.
Khi ổ nhiễm đã được kiểm soát tốt và các dụng cụ dẫn lưu đã sạch, nhìn chung chúng tôi sẽ giới hạn điều trị kháng sinh trong 4-5 ngày. Hiệu quả của việc sử dụng kháng sinh trong thời gian ngắn như trên được chứng minh qua nghiên cứu Study To Optimize Peritoneal Infection Therapy (STOP-IT), 518 bệnh nhân với nhiễm trùng ổ bụng có biến chứng và ổ nhiễm đã được kiểm soát tốt, chia thành 2 nhóm: một nhóm sử dụng thời gia điều trị kháng sinh với thời gian 4+/- 1 ngày (nhóm thử nghiệm – experimental group, nhóm còn lại thì cứ sử dụng kháng sinh đến 2 ngày sau khi tình trạng sốt, tăng bạch cầu, và đau bụng vùng hồi manh tràng, nhưng với tối đa là 10 ngày (nhóm chứng). Thời gian sử dụng kháng sinh trung bình là 04 ngày ở nhớm thử nghiệm so với 08 ngày ở nhóm chứng. Các kết quả ban đầu của nhiễm trùng vị trí phẫu thuật, nhiễm trùng tái phát, và tử vong xảy ra với tỷ lệ tương tự nhau ở cả 2 nhóm ( 21.8 trong nhóm thử nghiệm so với 22.3% trong nhóm chứng). Cũng tương tự ở một nghiên cứu khác, trên những bệnh nhân với tình trạng nhiễm trùng ổ bụng hậu phẫu nặng và ổ nhiễm trung đã được kiểm soát, tỷ lệ tử vong 45 ngày không có sự khác biệt giữa nhóm dùng kháng sinh ngắn và nhóm dùng kháng sinh lâu hơn (8 ngày so với 15 ngày).
Dĩ nhiên, có nhiều tình huống, mà việc kéo dài thời gian sử dụng kháng sinh sẽ là phù hợp:
Trên những bệnh nhân mà ổ nhiễm vẫn chưa được kiểm soát tối ưu nhất, thời gian tối ưu để điều trị kháng sinh thì không rõ, và những quyết định thời gian điều trị phải dựa trên từng ca bệnh.
Trên những bệnh nhân viêm ruột thừa không biến chứng mà không được can thiệp phẫu thuật ngay, chúng tôi nhìn chung tiếp tục điều trị kháng sinh với xấp xỉ khaongr 10 ngày.
Trong nhiều trương hợp, một catheter dẫn lưu sẽ cần thiết để làm sạch ổ nhiễm. Nhìn chung, chúng tôi sẽ sử dụng kháng sinh đến khi việc dẫn lưu của catheter đạt hiệu quả,
ví dụ đến khi một khối máu tụ đã nhiễm trùng hóa lỏng đủ để dẫn lưu qua catheter.
Điều này có thể đòi hỏi 2-3 tuần với một ổ áp xe phúc mạc. Áp xe gan kinh điển cần điều trị từ 4-6 tuần. Nếu có một đường dẫn lưu đã lâu (mạn) để dẫn lưu dịch đang rỉ ra từ ruột hoặc ống mật, mà không có sự tích tụ dịch ấy trong khoang phúc mạc, ngưng kháng sinh sẽ khá hợp lý ngay khi bệnh nhân cải thiện lâm sàng.
Bệnh nhân với ổ áp xe không được dẫn lưu, dịch rỉ từ ruột không được kiểm soát, hoặc các vấn đề cơ học chưa được giải quyết khác, thường sẽ có triệu chứng cơ năng và thực thể ngày càng tệ hơn sau khi ngưng kháng sinh. Chúng tôi nhìn chung sẽ can thiệp phẫu thuật hay can thiệp qua da trên những bệnh nhân như vầy để kiểm soát ổ nhiễm. Với các bệnh nhân mà ỏ nhiễm không được kiểm soát, thì việc dùng kháng sinh dài ngày dường như không có tác dụng.
Trên những ca bệnh không rõ ràng, việc giảm xuống giá trị của các marker viêm (CRP, tốc độ máu lắng và procalcitonin nếu có) có thể được sử dụng thận trọng, thêm các biện pháp lâm sàng, để hỗ trợ việc ngưng kháng sinh, và theo dõi đánh giá lâm sàng để xem xét các dấu hiệu tái nhiễm. Bằng chứng y khoa hổ trợ cho cách tiếp cận này còn nhiều uẩn khúc.
Đã có nhiều nghiên để đánh giá khả năng của các marker viêm trong việc hỗ trợ ngưng kháng sinh, nhưng hầu hết được thực hiện với marker procalcitonin, mọt xét nghiệm khoogn phải nơi nào cũng có. Trong một nghiên cứu trên bệnh nhân viêm phúc mạc thứ phát mà phải mổ cấp cứu, ngưng kháng sinh dựa trên ngưỡng procalcitonin (<1.0 ng/mL, hoặc giảm
>80% so với ngày đầu hậu phẫu), kèm với cải thiện về lâm sàng, đã đưa đến việc rút ngắn được thời gian sử dụng kháng sinh so với các mô thức điều trị trước đó.
THẤT BẠI LÂM SÀNG
Những bệnh nhân, đặc biệt là những người chưa được kiểm soát ổ nhiễm rõ ràng, nên được đánh giá lâm sàng trong suốt quá trình điều trị kháng sinh và sau khi ngưng để xác định việc có thất bại điều trị hay không, sẽ biểu hiện qua các dấu hiệu lâm sàng tái phát hay cứ dai dẳng như: sốt, hạ huyết áp, đau bụng, buồn nôn, rối loạn chức năng cơ quan, tăng bạch cầu. Trên những ca như vầy, khả năng kiểm soát ổ nhiễm không tốt (vd như: áp xe không được dẫn lưu, rỉ dịch tiến triển từ ruột, vật liệu mesh bị nhiễm trùng) nên được đánh giá lại với hình ảnh học. Các dữ liệu về vi sinh và liệu pháp kháng sinh ban đầu cũng nên được xem lại coi có phù hợp với bệnh nguyên nghi ngờ trên lâm sàng và điều trị phủ thuốc đã hợp lý chưa. Như đã lưu ý, hầu hết các thất bại trong điều trị là do việc không đạt được tốt việc kiểm soát ổ nhiễm. Cấy từ các vị trí dẫn lưu mạn tính, bề mặt vết thương hoặc từ những chổ không được vô khuẩn không thể giúp xác định chính xác mầm bệnh để sử dụng kháng sinh đích được.
Những cân nhắc khác với bệnh nhân có dấu hiệu nhiễm trùng ngày càng tiến triển : nhiễm trùng bệnh viện (vd: viêm ruột Clostridioides, viêm phổi hoặc nhiễm trùng tiểu do chăm sóc y tế, hoặc nhiễm trùng huyết do catheter). Trên những bệnh nhân có triệu chứng kéo dài, mà không phát hiện ổ nhiễm mới hay ổ nhiễm dai dẳng sau khi đã tầm soát kỹ lưỡng, ngưng kháng sinh là xác đáng. Các tiến trình không nhiễm khuẩn trên các tình huống như : bệnh huyết khối, phản ứng thuốc, viêm tụy cấp có thể đóng giả một tình trạng nhiễm trùng.
TÓM TẮT VÀ CÁC KHUYẾN CÁO
Nhiễm trùng ổ bụng thường bùng lên sau khi lớp màng nhày bảo vệ ruột bị xâm phạm (thất thủ), cho phép các chủng sinh sống bình thường trong ruột đi vào khoang bụng. Do đó, các chủng vi sinh nổi bật trong các tình huống như vầy thường là các chủng dạng Coli (eg, Escherichia, Klebsiella spp, Proteus spp, Enterobacter spp), Streptococci, và vi khuẩn kỵ khí. Mặc dù, chủn enterococci cũng thường được phan lập ra, mối liên hệ lâm sàng của chúng với các nhiễm trùng do chăm sóc y tế nhìn chung còn bị hạn chế.
Can thiệp ngoại khoa và/hay dẫn lưu qua da thường là yếu tố quyết định để điều trị và chăm sóc nhiễm trùng ổ bụng, hơn là các viêm phúc mạc nguyên phác. Hầu hết các thất bại trong điều trị đến từ việc không đạt được tốt việc kiểm soát ổ nhiễm. Can thiệp ngoại khoa và/hay dẫn lưu qua da cũng giúp ích cho việc lấy mẫu đem đi cấy/ phân tích vi sinh.
Điều trị kháng sinh kinh nghiệm trên những ca nhiễm trùng ổ bụng mắc cộng đồng mức độ từ nhẹ đến trung bình (ví dụ: thủng ruột thừa, áp xe quanh ruột thừa) với điều kiện không có nguy cơ đề kháng với kháng sinh hay các yếu tố dẫn đến thất bại điều trị khác, kháng sinh phủ enteric streptococci (streptococci ruột), non-resistant Enterobacteriaceae (Enterobacteriaceae chưa kháng thuốc), và các chủng kỵ khí nhìn chung là đã đủ.
Điều trị kháng sinh kinh nghiệm trên những ca nhiễm trùng ổ bụng mắc cộng đồng mức độ nặng hay có khả năng kết cục tệ hay có nguy cơ kháng thuốc. Phác đồ của chúng tôi nhìn chung sẽ kèm một kháng sinh chống Gram âm phổ rộng đủ để chống lại Pseudomonas aeruginosa and Enterobacteriaceae mà đã kháng với các kháng sinh nhóm Cephalosporin thế hệ III không chống Pseudomonas (non-pseudomonal third-
generation cephalosporins) , thêm vào nữa là kháng sinh phủ enteric streptococci and các chủng kỵ khí.
Điều trị kháng sinh kinh nghiệm trên những ca nhiễm trùng ổ bụng do chăm sóc y tế, chúng tôi nhìn chung sẽ kèm một kháng sinh chống Gram âm phổ rộng đủ để chống lại Pseudomonas aeruginosa and Enterobacteriaceae mà đã kháng với các kháng sinh nhóm Cephalosporin thế hệ III không chống Pseudomonas VÀ thêm một kháng sinh nhóm Fluorquinolon để phủ streptococci, enterococci, cũng như các chủng kỵ khí.
Điều trị kháng sinh trúng đích sẽ dựa trên kết quả cấy và các test độ nhay của mầm bệnh trong phòng thí nghiệm. Cấy mẫu từ một vị trí dẫn lưu mạn tính nhiều khả năng sẽ cho ra kết quả các chủng tại nơi đó hơn là chủng gây bệnh thật sự. Phụ kỵ khí nhìn chung phải được liên tục trong liệu trình sử dụng kháng sinh mặc dù có thể kết quả cấy không có kỵ khí.
Thời gian điều trị kháng sinh tùy vào tình trạng ổ nhiễm được kiểm soát tốt chưa. Với các ổ nhiễm đã kiểm soát tốt, chúng tôi giới hạn thời gian điều trị tầm 4-5 ngày.
Đau đầu là một trong những than phiền y khoa phổ biến nhất. Tổng quan cách tiếp cận bệnh nhân với đau đầu sẽ được trình bài trong bài dịch này. Tiếp cận những ca đau đầu trong cấp cứu sẽ được bàn luận trong một bài dịch khác. (See “Evaluation of the adult with nontraumatic headache in the emergency department”.)
Các đặc điểm lâm sàng và chẩn đoán của hội chứng đau đầu nguyên phát chuyên biệt cũng được thảo luận trong các chủ đề khác.
Đau nửa đầu
(See “Pathophysiology, clinical manifestations, and diagnosis of migraine in adults”.)
(See “Chronic migraine”.)
(See “Vestibular migraine”.)
(See “Hemiplegic migraine”.)
(See “Migraine with brainstem aura”.)
Đau đầu căng cơ
(See “Tension-type headache in adults: Pathophysiology, clinical features, and diagnosis”.)
Đau dây thần kinh tam thoa:
(See “Cluster headache: Epidemiology, clinical features, and diagnosis”.)
(See “Paroxysmal hemicrania: Clinical features and diagnosis”.)
(See “Short-lasting unilateral neuralgiform headache attacks: Clinical features and diagnosis”.)
(See “Hemicrania continua”.)
●Các rối loạn đau đầu nguyên phát khác:
(See “Primary cough headache”.)
(See “Exercise (exertional) headache”.)
(See “Primary headache associated with sexual activity”.)
(See “Cold stimulus headache”.)
(See “Primary stabbing headache”.)
(See “Nummular headache”.)
(See “Hypnic headache”.)
(See “New daily persistent headache”.)
PHÂN LOẠI
Khoảng 90% các loại đau đầu sẽ được xếp vào 3 loại chính là: đau nửa đầu, loại đau đầu căng cơ và đau đầu cụm. Trong khi đau đầu căng cơ cách hồi thường là đau đầu xuất hiện nhiều nhất trong các nghiên cứu, đau nửa đầu lại chiếm tỷ lệ phổ biến nhất trong các bệnh nhân đến thăm khám với bác sĩ gia đình.
chúng (bảng 1)
Đau đầu cụm là loại đau đầu kinh điển đưa bệnh nhân đến mất khả năng sinh hoạt thường ngày, và hầu hết các bệnh nhân này sẽ phải đi đến các trung tâm y khoa khẩn cấp. Tuy nhiên, đau đầu cụm cho tới nay vẫn không phải là một loại chẩn đoán phổ biến gặp tại phòng khám bác sỹ gia đình bởi vì tỷ lệ xuất hiện thấp trong cộng đồng của nó (dưới 1%).
Các bác sỹ có thể dễ dàng nhạn biết các loại đau đầu nguyên phát cũng như cách phân biệt
Đau nửa đầu
Đau đầu căng cơ
Đau đầu cụm
Vị trí
Đau một bên chiếm 60-70%
Đau 2 bên trán/ toàn bộ chiếm 30%
Đau cả 2 bên
Luôn luôn là một bên, thường bắt đầu từ
xung quanh hốc mắt/ thái dương
Tính chất
Khởi phát từ từ, mạnh lên dần; theo nhịp mạch; mức độ vừa đến nặng; tăng đau bởi các hoạt động sinh
Khởi phát rất nhanh đạt điểm cực đau chỉ trong vài phút; đau sâu, liên tục, và rất dữ dội
Lâm sàng
Bệnh nhân thích nghỉ ngơi trong phòng tối và yên tĩnh
Bệnh nhân có thể vẫn hoạt động bình thường được nhưng
cần nghỉ ngơi
Bệnh nhân vẫn sinh hoạt được
Thời gian đau
4 đến 72 giờ
30 phút đến 7 ngày
15 phút đến 3 giờ
Triệu chứng đi kèm
Nôn, ói, sợ ánh sáng, sợ âm thanh; có thể có aura (thường là thị giác nhưng vẫn có thể là khứu giác; hoặc khiếm khuyết vận động hoặc ngôn ngữ)
Không
Chảy nước mắt, đỏ mắt một bên; chảy nước mủi, nghẹt mủi; tái nhợt, vả mồ hôi; hội chứng Horner; kích thích không yên, triệu chứng thần kinh
khu trú nhưng hiếm, nhạy cảm với cồn.
Đau nửa đầu – Đau nửa đầu là một kiểu đau có cơn , tái phát. Đau nửa đầu thường nhưng không phải luôn luôn đau một bên đầu và tính chất đau thường đau kiểu nhói
hoặc đau theo nhịp mạch. Các triệu chứng đi kèm trong cơn có thể là: buồn nôn, ói, sợ âm thanh, sợ ánh sáng, nhạy cảm mùi. (bảng 2)
Đau nửa đầu không có Aura
A. Ít nhất 5 cơn đau thỏa các tiêu chuẩn từ B đến D
B. Các cơn đau đầu kéo dài từ 4 đến 72 giờ (không điều trị/ điều trị thất bại)
C. Cơn đau có ít nhất 2 trong số các đặc điểm sau:
Vị trí 1 bên đầu
Đau theo nhịp mạch
Mức độ đau từ trung bình đến nặng
Bệnh nhân bị kích thích đau bởi/ hoặc tránh các hoạt động sinh hoạt (vd đi bộ , leo cầu thang)
D. Trong cơn đau có ít nhất 1 trong số các đặc điểm sau:
Buồn nôn, nôn hoặc cả 2
Sợ ánh sáng và sợ tiếng động
E. Không có một chẩn đoán nào khác phù hợp hơn trong ICHD-3 (bảng phân loại rối loạn đau
đầu quốc tế)
Đau nửa đầu có kèm Aura
A. Ít nhất 2 cơn đau thỏa các tiêu chuẩn B và C
B. Một hoặc nhiều hơn các triệu chứng aura sau hồi phục hoàn toàn
Thị giác
Cảm giác
Lời nói/ ngôn ngữ
Vận động
Thân não
Võng mạc
C. Ít nhất 3 trong 6 đặc điểm sau đây:
Ít nhất một triệu chứng aura kéo dài dần trên 5 phút
Hai hoặc nhiều hơn triệu chứng xảy ra nối đuôi liên tiếp nhau
Mổi triệu chứng aura kéo dài 5-60 phút
Ít nhất một triệu chứng aura xảy ra ở một bên
Ít nhất một triệu chứng aura dương tính*
Aura xuất hiện cùng lúc hoặc 60 phút sau triệu chứng đau đầu
D. Không có một chẩn đoán nào khác phù hợp hơn trong ICHD-3 (bảng phân loại rối loạn đau
đầu quốc tế)
Các đặc điểm đau nửa đầu ở trẻ em và trẻ vị thành niên
Các cơn có thể kéo dài từ 2 đến 72 giờ
Đau thường xuất hiện ở cả 2 bên (tần suất nhiều hơn người lớn)
Sợ ánh sáng và sợ âm thanh có thể được quan sát thấy qua thái độ của đứa trẻ
* Bằng các thủ thuật khám (đâm kim…)
Các yếu tố kích thích có thể là: stress, kinh nguyệt, rối loạn giấc ngủ, kích thích thị giác, thai đổi thời tiết, đói…
Đau đầu căng cơ – Biểu hiện bệnh cảnh điển hình là cơn đau mức độ nhẹ đến trung
bình; cả hai bên đầu và không có kiểu đau châm chích, cơn đau đầu không đi kèm triệu chứng khác. (bảng 4)
Mô tả: đau đầu điển hình xuất hiện ở cả 2 bên đầu, kiểu đè nén hoặc siết chặt, mức độ từ nhẹ đến trung bình; kéo dài vài phút đến vài ngày. Cơn đau không tệ hơn khi sinh hoạt hằng ngày, và không có triệu chứng nôn ói nhưng sợ ánh sáng hoặc âm thanh có thể đi kèm. Tăng đau căng
vùng da đầu khi sờ chạm bằng tay
A. Ít nhất 10 hồi đau thỏa tiêu chuẩn từ B đến D. Các phân dạng đau thường xuyên hoặc không
thường xuyên được phân biệt bằng tiêu chuẩn sau:
Đau không thường xuyên: Cơn đau xuất hiện < 1 ngày mổi tháng (trung bình < 12 ngày/ năm)
Đau thường xuyên: Cơn đau xuất hiện từ 1 đến 14 ngày mổi tháng và trung bình trên thời
gian 3 tháng (tức >12 ngày và <= 180 ngày mổi năm)
B. Cơn đau kéo dài từ 30 phút đến 7 ngày
C. Có ít nhất 2 trog 4 đặc điểm sau:
Vị trí cả 2 bên đầu
Đau kiểu đè nén (không theo nhịp)
Mức độ nhẹ đến trung bình
Không nặng lên khi sinh hoạt bình thường (vd đi bộ , leo cầu thang)
D. Có cả 2 tiêu chuẩn sau
Không nôn hoặc ói
Không có hơn một triệu chứng sợ ánh sáng hoặc sợ âm thanh
E. Không có một chẩn đoán nào khác phù hợp hơn trong ICHD-3 (bảng phân loại rối loạn đau
đầu quốc tế)
Đau đầu cụm – đây là loại đau đầu thuộc về nhóm đau đầu vô căn, chỉ xảy ra ở một bên đầu, thường mức độ đau rất dữ và thường đi kèm với các triệu chính thần kinh tự động.
Đau đầu cụm điển hình sẽ là cơn đau đầu xuất phát từ ổ mắt hoặc xung quanh mắt hoặc thái dương, di kèm các triệu chứng tự động. Triệu chứng tự động xảy ra cùng bên
với bên đau đầu có thể gồm: sụp mi, co đồng tử, chảy nước mắt, nhiễm trùng củng mạc, chảy mủi, phù quanh mắt, tăng tiết mồ hôi vùng mặt và sung huyết mủi. Bứt rứt cũng có thể là một đặc điểm điển hình của đau đầu cụm. Cơn đau thường kéo dài từ 15 đến 180 phút.
Đau đầu cụm: Tiêu chuẩn chẩn đoán gồm các điểm sau:
A. Có ít nhất 5 cơn đau đầu thỏa các tiêu chuẩn từ B đến D
B. Cơn đau ở mắt, quanh mắt và/hoặc thái dương ở mức độ từ nặng đến rất nặng, kéo dài từ 15-180 phút nếu không điều trị; trong khoảng thời gian đau (nhưng phải ít hơn một nửa),
cơn đau có thể ít nặng hơn và/hoặc rút ngắn hoặc kéo dài hơn.
C. Có một hoặc cả hai điểm sau
1. Ít nhất một triệu chứng hoặc dấu hiệu sau cùng bên với cơn đau đầu
a. Nhiễm trung củng mạc và/hoặc chảy nước mắt
b. Sung huyết mủi và/hoặc chảy mủi
c. Phù mi mắt
d. Chảy mồ hôi trán hoặc mặt
e. Co đồng tử có hoặc không kèm sụp mi
2. Một cảm giác bứt rứt không yên hoặc kích động
D.
E. Không có một chẩn đoán nào khác phù hợp hơn trong ICHD-3 (bảng phân loại rối loạn
đau đầu quốc tế)
Đau đầu cụm vô căng: Tiêu chuẩn chẩn đoán đòi hỏi phải thỏa 2 điểm sau
A. Đủ các tiêu chuẩn của đau đầu cụm và xuất hiện lần lượt
B. Ít nhất 2 đợt đau trãi dài từ 7 ngày cho đến một năm (nếu không điều trị), và được tách
nhau ra bằng thuốc giảm đau trong thời gian trên 3 tháng
Đau đầu cụm mạn tính: Tiêu chuẩn chẩn đoán đòi hỏi phải thỏa 2 điểm sau
A. Đủ các tiêu chuẩn chẩn đoán đau đầu cụm
B. Các cơn xuất hiện mà không hề có khoảng nghỉ rõ ràng hoặc có khoảng nghỉ nhưng ít
hơn 3 tháng và ít nhất một năm.
Đau đầu cụm đôi khi có thể bị nhầm lẫn với một cơn đau đầu nguy hiểm tính mạng, bởi vì mức độ đau có thể chạm đến cực điểm dữ dội chỉ trong vài phút. Dĩ nhiên, đau đầu cụm thường có tính chất thoáng qua, thường rất hiếm khi nó kéo dài quá 1-2 giờ.
Đau đầu thứ phát – Một cơn đau đầu mà có nguyên nhân tiềm ẩn bên dưới sẽ được xếp vào nhóm đau đầu thứ phát. Bác sỹ thăm khám luôn phải nhớ đến các nguyên nhân gây đau đầu đe dọa tính mạng.
Trong một nghiên cứu về chăm sóc ban đầu người dân Brazil, 39% bệnh nhân nhập viện
với triệu chứng đau đầu, có sự liên quan với rối loạn toàn thân (phổ biến nhất là sốt,
tăng huyết áp cấp tính và viêm xoang) và 5% cơn đau đầu có nguyên nhân là rối loạn thần kinh (phổ biến nhất là đau đầu sau chấn thương, đau đầu do bệnh lý cột sống cổ, hoặc do các bệnh lý đang tiến triển trong não)
ĐÁNH GIÁ
Cách đánh giá phù hợp các than phiền đau đầu bao gồm các điểm sau:
Loại trừ bệnh học nguy hiểm và tìm kiếm các nguyên nhân thứ phát gây đau đầu.
Cân nhắc xem đây thuộc loại đau đầu nguyên phát nào bằng bệnh sử và bằng các công cụ đánh giá (bảng 1). Sẽ có thể có sự chồng chéo về triệu chứng, đặc biệt là giữa đau đầu Migrain và đau đầu căng cơ, và giữa Migraine và vài nguyên nhân đau đầu thứ phát khác chẳng hạn như bệnh lý xoang. Hỏi kỹ các đặc điểm đau đầu như : tần số, yếu tố khởi phát, bệnh nhân bị hạn chế bao nhiêu khi đau đầu xảy ra là những câu hỏi giúp phân loại được đau đầu.
Một bệnh sử hệ thống, kỹ càng là yếu tố quan trọng độc nhất để hình thành một chẩn đoán đau đầu chính xác và qua đó xem xét cần làm cận lâm sàng gì và điều trị tiếp như thế nào. Hình ảnh học thường không cần thiết trong phần lớn bệnh nhân nhập viện với đau đầu. Tuy nhiên, phải chụp và không được chần chừ trong các loại đau đầu thứ phát.
Bệnh sử và thăm khám – Bệnh sử có thể giúp khu trú lại việc thăm khám, cũng như giúp quyết định liệu hình ảnh học có cần thiết hay không. Một bệnh sử hệ thống nên bao gồm các điểm sau:
Độ tuổi của người bệnh lúc khởi phát triệu chứng
Có hay không triệu chứng Aura hoặc tiền triệu?
Tần số, mức độ đau và thời gian của cơn đau như thế nào?
Số ngày đau đầu mổi tháng là bao nhiêu?
Thời điểm và bối cảnh khởi phát như thế nào?
Tính chất, vị trí và hướng lan của cơn đau ra sao?
Các triệu chứng đi kèm có không?
Tiền sử gia đình có Migraine không?
Yếu tố tăng giảm đau? (vd ngồi, nằm; thức ăn, cồn;…)
Cơn đau ảnh hưởng đến sinh hoạt cỡ nào?
Có đáp ứng với các điều trị cũ hay không?
Có bất thường gì về quan trường hay không?
Có chấn thương gần đây không?
Có tự nghi nguyên nhân là gì không? (môi trường, công việc, sinh nở…)
Việc thăm khám một người đau đầu cần phải qua các vùng sau:
Đo huyết áp và mạch
Nghe âm thổi ở cổ, mắt, đầu để nghi ngờ dị dạng động tĩnh mạch
Khám sờ vào đầu, cổ và vai
Khám động mạch thái dương và động mạch cổ
Khám cơ cột sống và cơ cổ.
Khi khám thần kinh nên đánh giá luôn tình trạng tâm thần của bệnh nhân, khám kỹ các dây thần kinh sọ, soi đáy mắt, soi tai. Và thực hiện các nghiệm pháp test vận động, cảm giác, phản xạ, và tiểu nảo (điều hòa) ở cả 2 bên. Khám tư thế nên gồm việc đứng
dậy từ vị trí đang ngồi mà không có bất kỳ sự hỗ trợ nào và đi bộ trên các ngón chân, và làm thêm nghiệm pháp Romberg.
Các đặc điểm gợi ý đau đầu nguy cơ thấp
Các đặc điểm sau có thể giúp chỉ ra rằng nhiều khả năng bệnh nhân không có một nguyên nhân nguy hiểm tiềm tàng gây đau đầu:
Tuổi <= 50
Các đặc điểm điển hình của đau đầu nguyên phát (bảng 1)
Đau đầu có tính chất tương tự như các lần trong quá khứ
Không khám thấy bất thường thần kinh
Không có tình trạng đồng mắc nguy cơ cao
Không có phát hiện gì mới quan hỏi bệnh sử và thăm khám lần này (so với lần trước)
Các bệnh nhân mà có các đặc điểm trên thì không cần phải làm xét nghiệm hình ảnh học.
Phần lớn bệnh nhân có than phiền đau đầu sẽ có kết quả khám lâm sàng cũng như khám chuyên thần kinh bình thường. Tuy nhiên, co vài loại đau đầu nguyên phát khi khám sẽ có các dấu hiệu chuyên biệt
Với đau đầu căng cơ, có thể khám thấy căng đau các vùng cơ quanh sọ
Với Migraine, có thể có các dấu chứng liên quan đến các thụ thể tổn thương mô hoặc các neuron mạch máu thần kinh ngã ba trung ương (hình), như tăng cảm giác đau lên, hoặc loạn cảm đau
Các bất thường khác trong quá trình kiểm tra ngoài các dấu hiệu cừa nêu trên thì nên nghi ngờ bệnh nhân thuộc loại đau đầu thứ phát.
Các đặc điểm gợi ý bệnh nhân bị Migraine – Mổi loại đau đầu nó có các triệu chứng chuyên biệt riêng, nhưng rất tiếc chúng thường chồng lấp nhau. Một nghiên
cứu khảo sát trên cộng đồng, ít nhất một nửa số bệnh nhân đến có triệu chứng đủ để đáp ứng các tiêu chuẩn chẩn đoán Migraine, chính vì vậy Migraine có thể chồng lấp triệu chứng với các loại đau đầu khác. Ví dụ là một số lượng lớn các bệnh nhân Migraine có triệu chứng ở mủi y như bệnh viêm xoang.
Bổ sung thêm, nghiên cứu trong các trung tâm chăm sóc ban đầu, người ta thấy tới
90% bệnh nhân trong đợt cấp bệnh xoang có triệu chứng đáp ứng đủ chẩn đoán Migraine (theo tiêu chuẩn của Hiệp hội đau đầu quốc tế).
Để hạn chế lại các sai xót nhầm lẫn kể trên, nhiều công cụ chẩn đoán đã được đề ra, phần lớn các công cụ này đều nhắm đến giúp chẩn đoán Migraine, vì nó là hội chứng đau đầu nguyên phát phổ biến nhất đến phòng khám . Việc tầm soát dựa vào 03 câu hỏi chính:
Sợ ánh sáng (Photophobia) – ánh sáng có gây phiền cho ông/bà hay không?
Mất năng lực(Incapacity) – Cơn đau có giới hạn các hoạt động thường ngày của ông/bà hay không? (làm việc, học hành…)
Buồn nôn(Nausea) – ông/bà có cảm thấy buồn nôn hay khó chịu ở vùng dạ dày hay không?
Mẹo là cứ nhớ chữ PIN , để cố gắng gợi ý việc đau đầu Migraine. Khả năng cao là Migraine nếu có 2 trong 3 chữ vừa nêu (nghiên cứu cho thấy khả năng từ 59 to 84
%)
Thêm một công cụ tầm soát đau đầu khá đơn giản khác, bệnh nhân có 3 trong 4 câu hỏi:
Anh/chị có thường bị cơn đau đầu nặng không?
Anh/chị có thường bị cơn đau đầu nhẹ không?
Anh chị có thường uống thuốc giảm đau đầu không?
Có sự thay đổi gì trong cơn đau đầu gần đây của anh/chị không?
Trong một nghiên cứu, người ta thấy cơn đau đầu tái hồi gây mất chức năng sẽ là Migraine với tỷ lệ khảo sát là 136 / 146 bệnh nhân (93%). Và 154/197 patients (78%) với chẩn đoán đau Migraine mạn tính với độ đặc hiệu đến 63%. Do đó, trong thực tế bất kỳ bệnh nhân nào với đau đầu tái hồi nặng thì nên xem xét khả năng cao đó là Migraine.
Trong số các câu hỏi nêu trên, câu hỏi quan trọng đó là “cơn đau đầu lần này của anh/chị có khác với các cơn lúc trước không”, bởi vì nếu có, thì khả năng bệnh nhân sẽ là nhóm đau đầu thứ phát. Một bệnh nhân, trong 6 tháng, có các cơn đau đầu với tính chất tương tự nhau và ổn định thì khả năng là không có nguyên nhân nguy hiểm.
Các dấu hiệu nguy hiểm – luôn nên nhớ các dấu hiệu này vì nó có thể là gián tiếp của một khối choáng chổ nội sọ, hoặc sang thương mạch máu, nhiễm trùng, rối loạn chuyển hóa, hoặc một vấn đề toàn thân nào đó. Các dấu hiệu nguy hiểm chủ yếu sẽ thu thập được thông qua hỏi kỹ bệnh sử:
Để cho dễ nhớ, ta có thể nhớ chứ “SNNOOP10” để nhớ các dấu hiệu nguy hiểm gây đau đầu cấp hoặc bán cấp:
Triệu chứng toàn thân gồm cả sốt –
Systemic symptoms
Bệnh sử ung thư di căn – Neoplasm history
Khiếm khuyết thần kinh – Neurologic deficit
Khởi phát đột ngột cấp kỳ – “Onset is sudden or abrupt
Trên 50 tuổi – Older age
Đau đầu khác với lần đau trước –
Pattern change
Đau đầu theo tư thế – Positional headache
Khởi phát bởi ho, hắt hơi, hoặc tập thể dục – Precipitated by sneezing,
Phù gai thị – Papilledema
Đau đầu ngày càng tiến triển và kiểu không điển hình – Progressive headache
Thai kỳ hoặc hậu sản – Pregnancy
Đau mắt với các dấu hiện thần kinh tự động – Painful eye
Khởi phát đau đầu sau chấn thương –
Post-traumatic
Suy giảm miễn dịch sẵn có như là HIV – Pathology of the immune
Phải dùng liều mạnh hoặc thậm chí quá liều thuốc giảm đau đầu / hay phải sử dụng một thuốc giảm đau đầu mới hoàn toàn. – Painkiller
Nếu có các dấu hiệu “SNOOPP10” thì phải chụp CT hoặc MRI.
Các dấu hiệu chuyên biệt gợi ý khả năng cao là đau đầu thứ phát – bao gồm các tình huống sau:
Đau đầu chỉ có một bên và không chuyển bên (vd đau khóa bên), thì khả năng cao là đau đầu thứ phát (đặc biết nếu đau đầu xuất phát từ cột sống cổ hoặc đau sau chấn thương), mặc dù thực tế chỉ một lượng ít bệnh nhân có nguyên nhân nguy hiểm ẩn dấu (ví dụ di căn não, bóc tách động mạch đốt sống cổ, viêm tế bào không lồ, huyết khối xoang tĩnh mạch não). Dẫu vậy các bệnh nhân với đau đầu mà chỉ xuất hiện có một bên vẫn nên được “điều tra” đến cùng nguyên nhân.
Giảm khả năng nhìn hoặc thấy các vòng halo với quầng sáng xung quanh sẽ gợi ý bị Glaucoma (tăng nhãn áp). Nghi ngờ glaucoma góc đóng bán cấp dựa chủ yếu vào thời gian đau đầu một bên (thường ngắn dưới 1 giờ). Tật khúc xạ cấp (myopia) và glaucoma góc đóng cấp thứ phát, có
thể xảy ra tuy hiếm nhưng có khi bệnh nhân sử dụng thuốc Topiramate (thường dùng trị Migraine), điển hình sẽ thấy trong vòng 1 tháng sử dụng thuốc.
Khiếm khuyết hoặc giảm quan trường sẽ gợi ý một sang thương nào đó trên đường đi của dây thần kinh thị (ví dụ như u tuyến yên)
Mất thị lực đột ngột, một bên và mức độ nặng sẽ là dấu hiệu gợi ý viêm dây thần kinh thị giác. Viêm dây thần kinh thị giác sẽ có dấu hiệu kinh điển là đau, mất thị giác một bên, vài giờ cho đến vài ngày.
Nhìn mờ khi cúi đầu ra trước, đau đầu khi đi lại vào buổi sáng sớm và giảm khi ngồi nghỉ, nhìn đôi, mất khả năng giữ thăng bằng , nếu có các dấu chứng trên thì nên nghi ngờ có Tăng áp lực nội sọ (ICP), thường nó sẽ xuất hiện từ từ, mổi ngày, và diễn tiến đau đầu ngày càng tăng dần, kèm với nôn ói mạn tính. Tăng áp nội sọ vô căn là căn bệnh thường ảnh hưởng lên phụ nữ sanh nỡ và có béo phì. Đặc điểm nhận dạng sẽ là đau đầu, phù gai thị, giảm mất thị lực, chọc dịch não tủy sẽ ghi nhận tăng áp lực mở với các thành phần dịch não tủy bình thường.
Trong các bệnh nhân nhập viện giảm đau đầu khi nằm và tăng đau khi ngồi dậy, chẩn đoán giảm tưới máu nội sọ nguyên phát hoặc rò dịch não tủy nguyên phát với áp lực dịch não tủy bình thường là các chẩn đoán nên được tầm soát. Đặc điểm chính yếu của các hội chứng này là nó lan rộng, và có thể thấy tăng quang trên phim MRI ở vị trí các màng não. Nguyên nhân được đồng thuận rộng rãi là có mọt sự khiếm khuyết hoặc đứt gãy nào đó trên hệ thống màng não.
Sự hiện diện của nôn, ói và nặng lên khi thay đổi tư thế đặc biệt là tư thế gập cúi , một khiếm khuyết thần kinh khu trú, phù gai thị, cơn co giật mới khởi phát và/ hoặc có sự thay đổi kiểu đau rõ rệt so với lần trước là các dấu hiệu gợi ý u não. Các yếu tố khác gợi
ý đau đầu u não nhìn chung không đặc hiệu, nó có thể y chang đau đầu nguyên phát.
Đau đầu ngắt quãng, kèm theo đó là vả mồ hôi, nhịp tim nhanh lên, và/hoặc kèm tăng huyết áp tức thời hoặc dai dẳng là các dấu hiệu gợi ý một bệnh lý u tủy thượng thận “pheochromocytoma”
Đau đầu vào buổi sáng là triệu chứng không đặc hiệu, nó có thể là đau đầu nguyên phát hoặc có thể là một đau đầu thứ phát sau các nguyên nhân như: ngưng thở khi ngủ, nghiến răng khi ngủ, bệnh phổi tắc nghẽn mạn tính, đang cai caffeein hoặc quên uống caffee, hội chứng giảm thông khí do béo phì.
Các tình huống cấp cứu – có một lượng nhỏ bệnh nhân sẽ nhập viện với đau đầu đe dọa tính mạng cần phải hội chẩn để chẩn đoán và điều trị ngay lập tức. Bao gồm các bệnh nhân sau:
Đau đầu khởi phát cấp tính đau như sét đánh “thunderclap” – mô tả cơn đau đầu khởi phát chạm ngưỡng đau cực hạn cực nhanh (thường chỉ trong vài giây cho đền ít hơn 1 phút), gốc từ thunderclap nhằm mô tả sự nhanh, bùng nổ và bất ngờ của cơn đau (tiếng sấm). Đây có thể khả năng cao là một đau đầu do xuất huyết dưới nhện hoặc các bệnh nguyên hiểm ác khác (bảng 7)
Bảng 7: Bệnh nguyên của kiểu đau đầu thunderclap
Nguyên nhân phổ biến nhất của kiểu đau đầu thunderclap
Xuất huyết dưới nhện
Hội chứng co thắt mạch máu não thuận – nghịch
Các nguyên nhân ít phổ biến hơn nhưng vẫn gặp
Nhiễm trùng não (viêm màng não, viêm xoang biến chứng cấp tính)
Các nguyên nhân hiếm khi gây ra kiểu đau thunderclap
Nhồi máu tuyến yên
Nang não thất ba
Bóc tách nhánh động mạch chủ
Xơ hóa cuống não
U não
Viêm động mạch tế bào khổng lồ
U tủy thượng thận
Nang khí trong sọ
Retroclival hematoma
Máu tụ ngoài màng cứng tủy sống
Bệnh mạch máu do nhiễm virus Varicella zoster
Hội chứng Vogt-Koyanagi-Harada
Các nguyên nhân còn đang tranh cãi
Túi phình nội sọ
Đau đầu thunderclap nguyên phát
Đau cổ cấp hoặc bán cấp hoặc đau đầu đi kèm với hội chứng Horner và/hoặc có khiếm khuyết thần kinh
– bóc tách động mạch đốt sống cổ thường có triệu chứng khu trú, thường bệnh nhân đau cổ hoặc đau đầu, và thường dẫn đến một kết quả sau cùng
là nhồi máu não hoặc một cơn TIA. Hội chứng Horner sẽ gặp trong tỷ lệ tầm khoảng 39% số bệnh nhân với bóc tách động mạch cảnh và 13% bệnh nhân có bóc tách động mạch đốt sống.
Đau đầu nghi ngờ viêm màng não hoặc viêm não – sốt, rối loạn tri giác, đi kèm với cứng hoặc không cứng gáy có thể là các dấu hiệu chỉ hướng nhiễm trùng thần kinh trung ương.
Đau đầu với triệu chứng khiếm khuyết thần kinh khu trú hoặc toàn thể hoặc đau đầu kèm phù gai thị –
đau đầu là triệu chứng tiên phát của tăng áp lực nội sọ, và càng phải nghi ngờ khi có các dấu chứng sau đi kèm như: phù gai thị hai bên, khiếm khuyết thần kinh khu trú hoặc có các giai đoạn ói hoặc buồn nôn lặp đi lặp lại.
Đau đầu kèm các triệu chứng mắt và quanh mắt – đau đầu kèm theo giảm thị lực, đau quanh ổ mắt hoặc kèm theo liệt vận nhãn có thể là chỉ điểm cho glaucoma góc đóng cấp tính, hoặc có thể là nhiễm trùng, sung huyết mạch máu do huyết khối thuyên tắc xoang tĩnh mạch hang hoặc dị dạng dò động tĩnh mạch, hoặc thậm chí là một khối u trong ổ mắt.
Đau đầu sau hít khí CO – tính chất cơn đau tùy vào nồng độ CO hít vào.
Hình ảnh học – CT và MRI là những mô thức phổ biến dùng để chẩn đoán nguyên nhân đau đầu thứ phát. Việc chọn lựa có hay không dùng chất cản quan sẽ tùy vào bệnh cảnh lâm sàng.
Các chỉ đỉnh sử dụng hình ảnh học
là các bệnh nhân có các dấu nguy hiểm vừa nêu trên hoặc các bệnh nhân có các dấu hiệu nghi ngờ đau đầu thứ phát
Hình ảnh học thường không cần với các bệnh nhân có kiểu đau đầu Migraine ổn định trước giờ và không có dấu thần kinh khu trú khi thăm khám, mặc dù một ngưỡng thấp hơn là nên sử dụng hình ảnh học cho các bệnh nhân với kiểu đau Migraine không điển hình hoặc các bệnh nhân không thỏa đủ các tiêu chuẩn Migraine.
Phần lớn bệnh nhân không có các dấu nguy hiểm thường không phải nhóm đau dầu thứ phát. Một nghiên cứu 373 bệnh nhân có một hoặc nhiều hơn đặc điểm mà làm bác sỹ thấy cần phải chụp CT như: tăng độ nặng,
đáp ứng kém với thuốc, thay đổi kiểu đau, hoặc tiền sử gia đình có sang thương cấu trúc nội sọ, chỉ 02 người cho thấy có tổn
thương rõ rệt khi quét CT (một người bị u thần kinh đệm, một người bị phình mạch máu não), chỉ người bị túi phình là có thể điều trị.
Chọn loại hình ảnh học phù hợp – việc chọn loại mô thức hình ảnh nào và liệu có cần cản quang hay không sẽ tùy vào bối cảnh lâm sàng.
Bối cảnh cấp cứu –tình huống này thì CT sẽ có nhiều lợi thế hơn MRI:
Phổ biến và chụp mất vài phút
Rất nhạy với xuất huyết não
CT an toàn hơn MRI khi bệnh nhân nặng không ổn định.
Với các kỹ thuật mới hiện hành, mức độ ăn tia càng ngày càng thấp cho cả người lớn và trẻ em.
MRI là thiết bị ban đầu, thường hữu dụng trong các tình huống bệnh nhân đau đầu kèm theo có phù đĩa thị hoặc đau tam thoa, đau đầu mạn tính nhưng kỳ nãy có các triệu chứng mới, hoặc đau đầu mà có các dấu hiệu trong vùng nguy hiểm (nêu trên, ví dụ như ung thư đã biết, thai kỳ,…), luôn nhớ rằng CT vẫn là một cận lâm sàng có thể thay thế khi bạn không có máy MRI.
Bối cảnh không cần cấp cứu – Mri có độ nhạy cao hơn nhiều so với CT trong hầu hết các loại đau đầu thứ phát và cũng không bị ăn tia như CT.
Một lời khuyên từ các chuyên gia hãy lựa chọn khôn ngoan, không nên chọn CT để khảo sát nếu như có trong tay máy MRI, trừ khi đó là trường hợp cấp cứu.Dùng thêm chất cản quang nếu muốn khảo sát mạch máu và liều cản quang phù hợp cho một CT đầu là 2 millisievert (mSv).
Chọc dò tủy sống – chọc dò và phân tích dịch não tủy thường là một thủ thuật được chỉ định trong tình huống khẩn cấp, khi mà trên lâm sàng nghi ngờ khả năng cao là xuất huyết dưới nhện nhưng chụp CT kết quả lại bình thường. Và chọc dịch não tủy cũng được chỉ dịnh trong các tình huống nghi ngờ nhiễm trung, ung thư di căn. Chọc dò cũng dược chỉ định trong các tình huống tăng áp lực nội sọ vô căn, nhưng nhìn chung không cần thiết vì chúng ta đã có MRI có thể phát hiện chẩn đoán rò rỉ dịch não tủy tự phát với áp lực dịch não tủy bình thường hoặc giảm áp nội sọ tự phát do rò rỉ dịch não tủy. Các vấn đề này được trình bày ở một chủ đề khác.
Các tình huống lâm sàng phổ biến – bệnh nhân đến vì đau đầu với các yếu tố nghiêm trọng nhưng chưa đe dọa tính mạng nên được khám đánh giá ngay tức thì dù trong môi trường ngoại viện hoặc nội viện. Các đặc điểm khác nhau về chủng tộc, các bệnh đồng mắc cũng như tính chất đau đầu sẽ giúp rất nhiều trong việc chẩn đoán và điều trị phù hợp.
Đau đầu mới hoặc đau đầu gần đây
Khi tính chất cơn đau đầu kỳ này không
giống các lần trước và đi kèm theo các yếu tố nguy cơ thì khả năng cao bệnh nhân có một nguyên nhân nguy hiểm tiềm ẩn bên dưới cơn đau đầu. MRI có hoặc không có cản quang sẽ cần thiết để đánh giá khối choáng chổ nội sọ (u di căn, khối máu tụ, abccess…), tắc cống não, hoặc phù não sau khi bị nhồi máu. Nếu MRI không có thì dùng CT.
Trong các bệnh nhân với cơn đau đầu mới thì bệnh nhân được gọi là yếu tố nguy cơ cao khi có các đặc điểm sau:
Tuổi: thường trên 50 tuổi mà mới bị cơn đau đầu này
Ung thư
Sốt hoặc với bệnh Lyme: gợi ý nhiễm trùng thần kinh trung ương
Suy giảm miễn dịch: gợi ý nhiễm trùng hoặc u.
U não là nguyên nhân hiếm khi gây đau đầu nhưng cũng nên cân nhắc khảo sát nhất là khi nó đi kèm triệu chứng thay đổi tính chất đau, phù gai thị, khiếm khuyết thần kinh khu trú hoặc co giật; đặc biệt khi cơn đau đầu lần đầu tiên này xuất hiện trên những người trên 50 tuổi.
Khi không có các dấu hiệu nguy hiểm, bệnh nhân nhập viện với cơn đau đầu mới và khám thần kinh bình thường khả năng cao chỉ là đau đầu nguyên phát thường là Migraine hoặc đau đầu căng cơ.
Các bệnh nhân lớn tuổi – Các bệnh nhân càng lớn tuổi càng tăng nguy cơ đau
đầu thứ phát (như viêm mạch máu tế bào khổng lồ, đau thần kinh tam thoa, khồi máu tụ dưới màng cứng, herpes zoster cấp, đau thần kinh sau điều trị, và u não) và vài loại đau đầu nguyên phát (như đau đầu khi ngủ, đau đầu khi ho, Migraine). Xét nghiệm chẩn đoán hình ảnh khi nào thì tùy vào bạn nghi ngờ chẩn đoán gì. Các chẩn đoán nghi gờ là:
Viêm động mạch thái dương (viêm động mạch tế bào khổng lồ) – là bệnh lý viêm các mạch máu lớn và trung bình. Bệnh hiếm khi xảy đến trước tuổi 50 và dĩ nhiên tần suất bệnh tăng dần sau đó. Cơn đau điển hình kéo qua vùng thái dương nhưng có thể ở vùng trán hay ổ mắt. Mức độ đau từ nhẹ đến nặng. Thường đi kèm với các triệu chứng phụ như sốt, mệt mỏi, sụt cân, cứng hàm, triệu chứng thị giác, liệt vận nhãn ngang và nhìn đôi, và đôi khi có thể đi kèm viêm đa khớp. Xét nghiệm amsu sẽ thấy VS tăng, CRP tăng, tăng số lượng tiểu cẩu nhưng các dấu chứng này không đặc hiệu lắm.
Chẩn đoán sẽ dựa trên mô bệnh học và hình ảnh học. Mô bệnh học là bằng chứng hùng hồn nhất nhưng đòi hỏi phải sinh thiết động mạch thái dương. Chính vì vậy, siêu âm Doppler màu được thực hiện bởi một bs giàu kinh nghiệm sẽ là một biện pháp thay thế. Trên siêu âm có thể nhìn thấy hình ảnh bất thường của động mạch thái dương (ví dụ dấu hiệu phù thông qua
vòng halo hoặc dấu đè ép). Khi bệnh nhan vẫn bị nghi ngờ nhưng kết quả siêu âm hoặc thậm chí sinh thiết âm tính thì tiến tới sử dụng CTA, MRA hoặc PES.
Đau dây thần kinh tam thoa – thường được mô tả là đau đột ngột, dữ dội, một bên, đau nhói như dao đâm, có nhiều lần tái phát đau một trong số 3 nhánh của thần kinh V. Tỷ lệ tăng dần theo tuổi, thường nhất là sau 50 tuổi. Một khi chẩn đoán thì bị nghi ngờ việc quan trọng cần làm là tìm nguyên nhân ẩn đằng sau cơn đau ấy. MRI hoặc MRA là các công cụ hữu hiệu để đánh giá sự đè ép của các mạch máu lân cận lên dây thần kinh V.
Máu tụ dưới màng cứng mạn tính – có thể biểu hiện rất hiểm ác với các triệu chứng mơ hồ như đau đầu, đầu óc quay quay, suy nhận thức, thờ ơ lãnh đạm, ngủ gà, thậm chí co giật. Chụp CT hoặc MRI không cản quang là đủ để xác chẩn.
Herpes Zoster cấp và đau hậu điều trị – thường ảnh hưởng lên thần kinh vùng cổ và thần kinh tam thoa. Thường có đến 75% bệnh nhân sẽ có tiền triệu trên da và ban xuất hiện. Thường chẩn đáon dựa trên lâm sàng bòng nước trên các sang thương da.
Đau đầu lúc ngủ – còn được biết với cái tên “đau đầu hẹn giờ – alarm clock”, thường gặp trên các bệnh nhân
>50 tuổi, kiểu đau thì mơ hồ, thường ở 2 bên đầu, làm bệnh nhân tỉnh giấc. Đây là một chẩn đoán được thiết lập khi các loại đau đầu khác đã được loại bỏ. Do vậy nên chụp MRI để loại tổn thương cấu trúc não.
Thai kỳ – Đau đầu lần đầu hoặc đau thay đổi bản chất có thể là Migraine hoặc các đau đầu nguyên phát khác, nhưng nguy hiểm hơn nó có thể là dấu hiệu của tiền sản giật, đau đầu sau chọc dò tủy, hoặc huyết khối tĩnh mạch nội sọ. Tiền sản giật đặc biệt phải được nghỉ đến khi bệnh nhân có đau đầu và thai kỳ trên 20 tuần.
Đau đầu mạn tính – ở người trưởng thành với đau đầu mạn tái phát, gồm cả những người có aura, nhưng không thay đổi bản chất cơn đau, không tiền sử có giật, và không có dấu hiệu thần kinh khu trú thì hình ảnh học thường qui là không cần thiết.
Với các phân type đau đầu mà thời gian đau dài (4 giờ hoặc hơn), gốc từ “mạn” mô tả đau kéo dài hơn 15 ngày trên một tháng và lâu hơn 3 tháng và không có liên hệ với bệnh cơ quan. Các phân type đau đầu này gồm:
Đau đầu Migraine mạn tính
Đau đầu căng cơ mạn tính
Đau đầu phải dùng một lượng lớn thuốc kiểm soát
Hemicrania continua
Đau đầu dai dẳng , mới mổi ngày, không bớt trong vòng 3 ngày
Với các phân type mà thời gian đau đầu ngắn hơn (ít hơn 4 giờ), gốc từ “mạn” mô tả thời gian đau kéo dài mà không dứt hẳn. Các phân type đau đầu này gồm:
Đau đầu cụm mạn
Đau đầu kịch phát mạn (Chronic paroxysmal hemicrania): đặc trưng là đau một bên, cơn đau nặng liên quan với tính tự động của dây thần kinh sọ, có thể tái xảy ra nhiều lần trong ngày , mổi lần 2-30 phút.
Short-lasting unilateral neuralgiform headache attacks: cơn đau dột ngột tức thời nhanh chóng ở mắt, ổ mắt, thái dương đi kèm với triệu chứng thần kinh sọ cùng bên.
Đau đầu khi ngủ
Đau đầu stabbing nguyên phát, cơn đau dột ngột tức thời nhanh chóng ở mắt, ổ mắt, thái dương
Các nốt ở tuyến giáp được phát hiện khi bác sĩ thăm khám thường qui, hoặc khi tình cờ qua hình ảnh học như: siêu âm mạch cảnh, CT đầu và cổ, hoặc PET scan. Tầm quan trọng của chúng có hay không
thì ban đầu cũng cần phải loại trừ khả năng ung thư trước, mà ước tính chiếm tỷ lệ 4-6.5% trong tất cả các trường hợp xuất hiện nốt ở tuyến giáp.
ĐÁNH GIÁ
Nhiều rối loạn khác nhau có thể hình thành nên các nốt ở tuyến giáp (bảng 1). Quan trọng là phải loại trừ ung thư tuyến giáp. Tỷ lệ ung thư sẽ cao hơn ở nhiều nhóm bệnh nhân sau:
Trẻ em
Người trưởng thành nhỏ hơn 30 tuổi
Bệnh nhân có tiền sử tiếp xúc đầu & cổ với phóng xạ
Bệnh nhân có tiền sử gia đình bị ung thư tuyến giáp
Trong một nghiên cứu ở Sicily, nhưng kết quả không nhất quán từ một nghiên cứu khác ở Boston, tần suất ung thư cao hơn ở những người trên 60 tuổi.
Tiếp cận của chúng tôi (lưu đồ 1) nhất quán với các hướng dẫn hiện hành của hiệp hội tuyến giáp Hoa Kỳ (American Thyroid Association (ATA)) và National Comprehensive Cancer Network (NCCN)
Bảng 1: các nguyên nhân tạo thành các nốt ở tuyến giáp
Lành tính
Ác tính
Phình giáp đa hạt
Carcinoma dạng nhú
Viêm giáp Hashimoto
Carcinoma dạng nang
Nang giáp (dạn keo, đơn thuần hoặc xuất huyết)
Xâm lấn tối thiểu hoặc rộng
Adenoma dạng nang
Loại Hürthle cell
Adenoma dạng nang lớn
Loạn sản nang giáp không xâm lấn với các đặc điểm phân tử giống nhú
Adenoma nang nhỏ
Carcinoma dạng tủy
Hürthle cell Adenoma
Anaplastic carcinoma
Dạng nang lớn hoặc nang nhỏ
Lymphoma tuyến giáp nguyên phát
Carcinoma di căn (vú, tế bào thận, những nơi
khác)
Ban Đầu
Các nốt ở tuyến giáp được phát hiện khi bác sĩ thăm khám thường qui, hoặc khi tình cờ qua hình ảnh học như: siêu âm mạch cảnh, CT đầu và cổ, hoặc PET scan. Các nốt không sờ được cũng có nguy cơ ác tính tương tự như các nốt sờ được khi xét về cùng kích cỡ. Do vậy, đánh giá ban đầu trên tất cả các bệnh nhân với một một phát hiện nốt ở tuyến giáp (phát hiện bằng sờ thấy, hay chỉ tình cờ phát hiện qua hình ảnh học) sẽ bao gồm:
Bệnh sử và thăm khám lâm sàng
Đo TSH
Siêu âm để đánh giá kỹ hơn các đặc điểm của nốt, đánh giá xem có còn nốt nào nữa không và khảo sát hệ bạch huyết.
Bệnh sử và thăm khám
Bệnh sử và thăm khám lâm sàng có độ chính xác thấp trong việc tiên lượng ung thư. Dĩ nhiên, có nhiều yếu tố trong phần bệnh sử mà sẽ gợi ý cao đây là một tình trạng ung thư, như: khối ở cổ phát triển quá nhanh, tiền sử lúc nhỏ có tiếp xúc với chất phóng xạ khu vực đầu mặt cổ, tiền sử gia đình có ung thư tuyến giáp, hoặc hội chứng ung thư tuyến giáp (như multiple endocrine neoplasia type 2 [MEN2], hội chứng Cowden, bệnh đa polyp tuyến gia đình).
Thăm khám lâm sàng chủ yếu sẽ phát hiện một khối cứng chắc, các triệu chứng tắc nghẽn nếu có, phát hiện các hạch bạch huyết ở cổ, hoặc liệt dây thanh âm, tất cả các triệu chứng vừa nêu đều sẽ gợi ý một tình trạng ung thư tuyến giáp.
Nồng độ TSH
Chức năng tuyến giáp nên được đánh giá trên tất cả các bệnh nhân có xuất hiện nốt tuyến giáp (lưu đồ 1).
Nồng độ TSH là giá trị tiên lượng độc lập cho khả năng ác tính của nốt tuyến giáp. Trong một nghiên cứu trên 1500 bệnh nhân có một vấn đề về tuyến giáp, tần suất ác tính lần lượt là 2.8, 3.7, 8.3, 12.3, and 29.7% ứng với nồng độ TSH lần lượt là <0.4 mU/L, 0.4 to 0.9 mU/L, 1 to 1.7 mU/L, 1.8 to 5.5 mU/L và >5.5 mU/L, tương đối. Các nghiên cứu khác đã chỉ ra rằng, khi ung thư tuyến giáp đã được xác chẩn, một giá trị TSH cao có mối liên hệ nhiều với một giai đoạn ung thư tiến triển.
Lưu đồ: đánh giá ban đầu trên bệnh nhân có nhân giáp
Nhân giáp được phát hiện trên lâm
sàng hay tình cơ qua hình ảnh học
TSH, siêu âm tuyến giáp
TSH dưới bình thường
TSH bình thường hoặc tăng
Scan hình ảnh học phân tử
Đo fT4, T3
Nhân không chức năng
Nhân có chức năng
fT4 và T3 bình
thường
fT4 và/hoặc T3
tăng
Đáp ứng các tiêu chuẩn trên
siêu âm để làm FNA?
Cường giáp dưới
lâm sàng
Cường giáp
YES
NO
FNA
Theo dõi
Giám sát kỹ*
Điều trị
điều trị các bệnh nhân chọn lọc
Siêu âm tuyến giáp
Siêu âm tuyến giáp được thực hiện trên tất cả các bệnh nhân với một nốt tuyến giáp nghi ngờ, hoặc phình giáp phát hiện qua khám lâm sàng, hoặc với những nốt tình cờ phát hiện qua các phương tiện hình ảnh học khác. Sử dụng thường qui công cụ siêu âm để tầm soát ung thư tuyến giáp không sờ chậm được trên các bệnh nhân không có nghi ngờ có nốt tuyến giáp là điều không cần thiết và không khuyến cáo.
Cung cấp nhiều thông tin hơn khám lâm sàng:
Siêu âm được sử dụng để trả lời câu hỏi về kích thước cũng như giải phẫu của tuyến giáp và các cấu trúc lân cận bên vùng cổ. Nó cho ra nhiều chi tiết giả phẫu hơn là những kỹ thuật khác như xạ hình, CT và khám lâm sàng. Trong một nghiên cứu hồi cứu với 173 bệnh nhân, với một nốt tuyến giáp phát hiện trên lâm sàng, siêu âm đã cho ra kết quả hình ảnh giải phẫu khác với việc khám lâm sàng của các bác sĩ chuyên khoa trong 63% trường hợp.
Siêu âm có thể thấy được những nốt nằm ở vị trí phái sau hoặc các nốt bản chất chủ yếu là dạng nang. Sự chính xác trong việc chẩn đoán bằng FNA thông qua sờ để xác định chọc kim sẽ giảm trong các tình huống này, và chọc FNA thông qua siêu âm hướng dẫn sẽ cho hiệu quả cao hơn.
Giúp chọn ra các nốt để chọc FNA:
Có nhiều đặc điểm mà khi phát hiện bằng siêu âm sẽ gợi ý tình trạng ác tính cao (bảng 2). Giá trị tiên lượng của tùng đặc điểm biến thiên rất rộng. Và chúng tôi không trả lời bệnh nhân có ung
thư tuyến giáp hay không, hoặc có cần phẫu thuật hay không bằng phương tiện siêu âm. Dĩ nhiên, siêu âm có thể được sử dụng giúp chọn là những nốt để thực hiện chọc FNA.
Đánh giá sâu hơn – chủ yếu dựa vào các đặc điểm trên siêu âm và xét nghiệm nồng độ TSH
TSH thấp
Nếu nồng độ TSH thấp hơn bình thường, điều đó chỉ ra tình trạng cường giáp hoặc có thể là cường giáp dưới lâm sàng, khả năng nốt tuyến giáp tăng chức năng là khá cao, và việc là tiếp
theo là nên xạ hình tuyến giáp (lưu đồ 1). Việc sản xuất ra hormon tuyến giáp từ các nhân giáp độc tự trị (autonomous nodules) (đặc biệt là các nốt có kích thước nhỏ hơn các nốt khác) có thể kéo giảm TSH chỉ xuống thấp hơn mức bình thường (vd, <1 mU/L). Xạ hình tuyến giáp có thể cho hiều thông tin trên các bệnh nhân như thế này, đặc biệt khi mà nồng độ TSH dã thấp từ trước đó hoặc khi kết quả FNA gợi ý một loạn sản dạng nang.
Cần nhớ, bệnh nhân với mức TSH thấp hơn ngưỡng bình thường, cũng cần phải đánh giá tình trạng cường giáp.
Xạ hình tuyến giáp
Là công cụ sử dụng để xem xét tình trạng chức năng của một nốt tuyến giáp. Một giá trị TSH thấp hơn ngưỡng bình thường, chỉ ra một tình trạng cường giáp hoặc cường giáp
dưới lâm sàng, và cũng đi kèm với tăng khả năng nốt tuyến giáp tăng chức năng của chính nó. Do các nốt tăng chức năng hiếm khi là ung thư, khi bạn thấy một nốt tăng chức năng trên hình ảnh học phóng xạ thì chọc FNA sẽ không cần chỉ định. Thêm nữa, xạ hình tuyến giáp, sẽ phù hợp cho các bệnh nhân với đa nốt, khi làm xạ hình sẽ phát hiện các nốt nào giảm chức năng, và các nốt ấy sẽ được làm FNA. Mặc dù, xạ hình có thể chọn nốt nào sẽ được làm FNA, nhưng nó không đưa ra quyết định chọn bệnh nhân nào để phẫu thuật cắt bỏ.
Kỹ thuật hình ảnh phóng xạ bị chống chỉ định trên các bệnh nhân có thai. Nếu đang cho con bú, thì nên tạm ngưng cho bú. Thời gian ngưng cho bú bao lâu sẽ tùy thuộc vào loại đồng phân phóng xạ nào được sử dụng (lâu hơn nếu sử dụng phóng xạ iod).
Xạ hình tuyến giáp sử dụng một đồng phân phóng xạ iod (thường là 123-I hoặc technetium-99m). Nếu có, phóng xạ iod sẽ được ưu tiên và yêu thích lựa chọn hơn. Tuyến giáp tiếp xúc và hấp thu với các chất phóng xạ này theo một cách rất chuyên biệt. Các tế bào nang giáp sẽ nhận cả technetium and radioiodine, nhưng chỉ radioiodine được dự trữ trong lòng tế bào nang giáp (như thyroglobulin). Hầu như các nốt lành tính và tất cả các nốt ác tính sẽ tích tụ các đồng phân phóng xạ ít hơn các mô giáp bình thường. (hình 1). Dĩ nhiên, 5% các ung thư tuyến giáp sẽ chỉ tích tụ technetium-99m pertechnetate, nhưng không tích tụ iod phóng xạ, các nốt kiểu như vầy có thể cho hình ảnh “nóng” hay nhẹ hơn là “ấm” trên phim scan pertechnetate, nhưng sẽ cho hình ảnh “lạnh” trên phim scan iod phóng xạ. Kết quả là, các bệnh nhân có nốt chức năng trên hình ảnh học với technetium-99m pertechnetate nên được thực hiện tiếp hình ảnh học với iod phóng xạ để xác định xem nó có thực sự tăng chức năng hay không. Dĩ nhiên, nếu trên hình ảnh scan pertechnetate, bạn thấy một sự tăng rõ ràng ở nốt khảo sát, và kèm với một sự hấp thu kém ở bất kỳ nơi đâu thuộc tuyến giáp, và TSH bình thường, thì phóng xạ iod có thể không cần thiết.
Nốt không chức năng – các nốt không chức năng sẽ xuất hiện với một tình trạng “lạnh” (có nghĩa là ít bắt thuốc hơn các mô xung quanh) (hình 1) và chúng có thể cần phải đánh giá sâu hơn bằng chọc hút FNA.
Hình 1
Scan tuyến giáp với iod cho ra một hình ảnh điển hình, một nốt “lạnh”, lớn, 3.5cm bên trái thùy trên tuyến giáp. (vòng tròn trắng)
Nốt tự trị – các nốt độc tự trị có thể xuất hiện nóng (nghĩa là bắt thuốc nhiều hơn
mô giáp xung quanh) (hình 2) nếu chúng tăng chức năng. Các nốt mà không đủ sức tạo ra đủ hormon tuyến giáp để gây ra tình trạng giảm TSH lại sẽ xuất hiện trên xạ hình với hình ảnh “ấm”. Ước tính cho thấy chỉ 5-10% các nốt tự trị sờ thấy bằng lâm sàng. Chỉ vài bệnh nhân có nốt tự trị được phát hiện là ung thư, và chỉ vài bệnh nhân trong số các bệnh nhân ung thư này sẽ bị tiến triển nhanh. Cuối cùng, bổ sung thêm, các nốt tăng chức năng (nốt tự trị) hiếm khi là ung thư, nên khi thấy một hình ảnh tăng chức năng trên iod phóng xạ scan thì FNA không cần thiết chỉ định.
Hình 2
Scan tuyến giáp với iod cho ra một hình ảnh một nốt tự trị (“nóng”)
Các nốt vô định, mập mờ – bởi vì xạ hình tuyến giáp có 2 phương hình, giới hạn của nó chính là kết quả từ việc chồng chéo hình ảnh của các mô bất thường với
các mô bình thường của tuyến giáp. (hình 3). Do vậy, trong hơn 80% các nốt không tự trị lớn hơn 2cm, lạnh, các nốt nhỏ hơn xuất hiện lấp đầy các khoảng thiếu trong ít hơn 1/3 trường hợp. Phần lớn các nốt nhỏ còn lại sẽ xuất hiện mập mờ trên xạ hình. Chúng có thể xuất hiện muôn hình vạn trạng, có thể vừa là nốt
kích thước nhỏ, không chức năng phía trước hoặc sau đối với mô giáp chức năng bình thường, hoặc cũng có thể là các nốt tự trị mà không đủ khả năng sản xuất đủ hormon giáp để gây giảm TSH (hình 4)
Các thể loại nốt mập mờ này không nên được qui là nốt “ấm” hoặc có chức năng, bởi vì, trong thực tế, phần lớn chúng đều không có chức năng. Các nốt mập mờ này nên được thực hiện chọc hút FNA nếu chúng đáp ứng các tiêu chuẩn về đặc điểm trên siêu âm để phải làm FNA (xem tiêu chuẩn ở phần bên dưới)
Hình 3
Scan tuyến giáp với iod một ung thư giáp dạng nhú 2cm, mà lại không hiện ra như là một nốt không chức năn, bởi vị chồng hình của mô giáp bình thường.
Hình 4
Scan tuyến giáp với iod để đánh giá một nốt ở thùy trái
TSH có giá trị bình thường hoặc cao
Nếu như nồng độ TSH nằm ở giá trị bình thường hoặc cao, và nốt đáp ứng đủ các tiêu chuẩn để cần phải lấy mẫu thử xét trên các tiêu chí bằng siêu âm tuyến giáp (bảng 3 và bảng 4), bước kế tiếp để đánh giá là sờ chạm hoặc chọc hút FNA dưới hướng dẫn của siêu âm (lưu đồ 1). Sinh thiết nốt tuyến giáp thông qua FNA là kỹ thuật chính xác nhất để đánh giá các nốt tuyến giáp và xác định xem bệnh nhân nào cần phẫu thuật.
Với các nốt mà không đáp ứng các tiêu chuẩn trên siêu âm để tiến tới thực hiện FNA thì sẽ được theo dõi (xem phần theo dõi bên dưới).
Các bệnh nhân có nồng độ TSH cao, thì cần phải đánh giá tình trạng suy giáp.
Sinh thiết bằng kim nhỏ (Fine-needle aspiration biopsy)
Tiêu chuẩn trên siêu âm để tiến tới thực hiện FNA
Sự hiện diện của các đặc điểm nghi ngờ ác tính trên siêu âm có độ tiên lượng ác tính cao hơn so với xét trên tiêu chí kích thước khối u. Hiệp hội tuyến giáp Hoa
Kỳ đã đưa ra các tiêu chuẩn trên siêu âm và chúng tôi cũng đồng thuận nhất quán sâu sắc với các hướng dẫn của hội tuyến giáp Hoa Kỳ. (bảng 3)
FNA nên được thực hiện ở bất kỳ các nốt (bất kể kích thước ra sao) với các đặc điểm nghi ngờ ác tính trên siêu âm như sau:
Các vị trí dưới bao gần với dây thần kinh quặt ngược thanh quản hoặc gần khí quản
Lan rộng ra ngoài tuyến giáp
Có vòng calci hóa
Có các hạch lympho ở vùng cổ bất thường thấy trên siêu âm
Các nốt với kích thước dưới 5mm sẽ rất khó để làm FNA, chình vì thế, trước khi thực hiện các trường hợp như vầy, nguy cơ lấy FNA rồi nhưng vẫn không chẩn đoán được hay độ tin cậy khi chẩn đoán âm tính cần phải được bàn bạc với bệnh nhân. Nếu có xuất hiện các hạch cổ bất thường, mô học qua FNA có thể thực hiện bằng cách lấy mẫu tại những hạch bất thường kia.
FNA nên được thực hiện với các nốt có kích thước trên 1cm, nếu chúng đặc và giảm âm với kèm theo một hoặc nhiều hơn các đặc điểm nghi ngờ trên siêu âm như:
Bờ không đều
Vi calci hóa
Hình dạng cao ưu thế hơn so với chiều rộng
Vòng calci đè ép mô mềm
Khả năng ác tính là khá cao (70 to 90%) với các nốt đặc giảm âm và có từ 1 đến nhiều đặc điểm trên siêu âm vừa nêu, nếu chỉ có đặc và giảm âm nhưng không có các đặc điểm nghi ngờ thì con số chỉ là 10-20% (bảng 3). Hội tuyến giáp Hoa Kỳ cũng sử dụng kích thước >1cm để hướng dẫn thực hiện FNA với các nốt đặc, giảm âm mà không cần có đặc điểm nghi ngờ. Dĩ nhiên, hội American College of Radiology-Thyroid Imaging Reporting
and Data System (ACR-TIRADS) sử dụng ngưỡng khác, đó là 1.5cm (bảng 4).
FNA có thể được xem xét thực hiện trên các bệnh nhân cá biệt với các nốt
<1cm, nếu họ có tiền sử gia đình ung thư giáp, hội chứng liên quan đến ung thư giáp, trẻ, tiền căn điều trị với chất phóng xạ. Tuy nhiên, hầu hết bệnh nhân với các nốt dưới mức cm mà nghi ngờ có thể được theo dõi. Các bệnh nhân lý tưởng cho những nốt nghi ngờ mà kích thước dưới cm đó là: bệnh nhân giá (trên 60t), đặc biệt nếu như họ còn có bệnh đồng mắc, với nốt đơn độc, bờ rõ, và có một vòng >2mm của mô giáp bình thường.
Các nốt với hình dạng trên siêu âm gợi ý nguy cơ thấp ung thư (đẳng âm,
tăng âm, hoặc nang,ước tính tỷ lệ ác tính sẽ từ 5-10%) có thể cân sinh thiết khi kích thước trên 1.5cm (bảng 3).
Các nốt có hình dạng spong (kiểu như dạng lưới) là các nốt đượcc định nghĩa là có thể tích các nang nhỏ bên trong chiếm hơn 50% thể tích của nốt, có thể không cần phải FNA bất kể kích thước nốt to nhỏ như thế nào đi nữa. Mặc dù nói thế, sẽ là không ngoan để FNA các nốt dạng này khi kích thước trên 2cm (ước tính nguy cơ ác tính dưới 3%).
Các nốt dạng nang, nhưng dịch trong nang trong suốt thì không cần làm FNA.
Bổ sung thêm các tiêu chuẩn siêu âm và giá trị cutoff của hội tuyến giáp Hoa kỳ để thực hiện FNA (bảng 3), ACR đưa ra một hệ thống còn phức tạp hơn cả tiêu chuẩn của hột ATA, để đánh giá các nốt trên tuyến giáp dựa trên nền tảng siêu âm sử dụng TIRADS (bảng 4). Các đặc điểm nghi ngờ
trên siêu âm được chấm điểm số, và các nốt được phân chia từ TIRAD 1 đến 5 dựa trên tổng điểm, và TIRAD càng cao, độ ác tính càng tăng. Các nốt phân thành TIRAD 3, 4, 5 cần được sinh thiết khi kích thước tương ứng là 25, 15, và 10mm (bảng tính 1).
Trong một nghiên cứu đã cho thấy, độ nhạy trong việc phát hiện ung thư sẽ cao (90%) khi áp dụng các tiêu chuẩn của ATA, hơn là với sử dụng thang điểm TIRADS (75%). Ngược lại, kết quả FNA âm sẽ cao hơn với tiêu chuẩn ATA (52%), con số này với tiêu chuẩn TIRADS sẽ thấp hơn (25%). Trong một nghiên cứu khác so sánh các tiêu chuẩn khác nhau, tiêu chuẩn TIRADS cho ra tỷ lệ âm giả nhất so với các tiêu chuẩn khác (chỉ 2.2%)
Nhiều nốt (nhân)
Các bệnh nhân có nhiều nốt thì cũng có nguy ơ ác tính tương tự với bệnh nhân chỉ có 1 nốt đơn độc. Mặc dù, nguy cơ ung thư của tùng nốt trên bệnh nhân đa nốt là thấp hơn so với bệnh nhân chỉ có 1 nốt duy nhất. Do đó, mổi nốt nên được đánh giá cá biệt bằng siêu âm để xem xét xem liệu có cần làm FNA với nốt đó hay không.
Theo dõi các nốt mà không đáp ứng tiêu chuẩn cần làm FNA
Các nốt không đáp ứng tiêu chuẩn phải làm FNA thì cần được theo dõi, tần suất theo dõi ra sao thì còn tùy vào đặc điểm phát hiện trên siêu âm. Chúng tôi thực hiện siêu âm thường qui khởi đầu tại thời điểm:
6 đến 12 tháng với các nốt mức độ dưới cm và có các đặc điểm nghi ngờ trên siêu âm
12 đến 24 tháng với các nốt các đặc điểm nghi ngờ trên siêu âm ở mức độ thấp đến trung bình.
2 đến 3 năm với các nốt nguy cơ rất thấp.
Các lần siêu âm sau có thể giãn ra xa hơn nếu như tình trạng ổn định. Các nốt mà tăng kích thước rõ rệt thì nên làm FNA. Và các nốt ban đầu ở mức độ dưới cm mà phát triển thành ≥1 đến 2.5 cm thì đòi hỏi phải cần sinh thiết lệ thuộc vào kích thước và đặc điểm của chúng trên siêu âm. (bảng 3 và bảng 4).
Bằng chứng cho các khuyến cáo để theo dõi các nốt dưới ngưỡng cm và không có đặc điểm nghi ngờ trên siêu âm đến từ một nghiên cứu hồi cứu với các bệnh nhân Italy, trên 992 bệnh nhân (không có nguy cơ ung thư giáp, nhưng có sự thiếu hụt iod mức độ nhẹ đến trung bình), với 1567 nốt được theo dõi mổi năm trong vòng 5 năm. Trong suốt thời gian theo dõi chỉ một trường hợp ung thư. Nốt này đươc làm FNA bởi vì có các đặc điểm nguy cơ (giảm âm, bờ không đều), không tăng sinh. FNA không thực hiện trên tất cả các bệnh nhân không nghi ngờ, chính vì thế nghiên cứu không thể loại trừ được các trường hợp ung thư không triệu chứng.
Bảng 3: các dạng trên siêu âm, ước tính nguy cơ ác tính và các hướng dẫn cần làm FNA
Dạng siêu âm
Các đặc điểm trên siêu âm
Ước đoán nguy cơ ác tính
Cân nhắc sinh thiết
Nghi ngờ cao
Nốt giảm âm đặc hoặc có một phần giảm âm đặc trong một nốt dạng nang VỚI một hoặc nhiều hơn các đặc điểm sau: bờ không đều,
vi hóa calci, chiều
>70 to 90%*
Khuyến cáo làm FNA khi ≥1 cm
cao lớn hơn chiều rộng, vòng calci đẩy lệch nhẹ mô mềm, bằng chứng đã lan ra
khỏi tuyến giáp
Nghi ngờ trung bình
Nốt đặc giảm âm với bờ đều KHÔNG KÈM vi hóa calci, chiều cao lớn hơn chiều rộng, hoặc đã
lan ra khỏi tuyến giáp
10 to 20%
Khuyến cáo làm FNA khi ≥1 cm
Nghi ngờ thấp
Nốt đặc đẳng âm hoặc tăng âm, nốt dạng nang với những vùng đặc không đồng tâm, KHÔNG KÈM bờ không đều, vi hóa calci, chiều cao lớn hơn chiều rộng, hoặc đã lan ra
khỏi tuyến giáp
5 to 10%
Khuyến cáo làm FNA khi ≥1.5 cm
Nghi ngờ rất thấp
Các nốt có dạng spong hoặc dạng nang cục bộ KHÔNG KÈM các
đặc điểm đã mô tả
trong nhóm nguy cơ thấp, trung bình và
cao
<3%
Xem xét làm FNA khi ≥2 cm
Theo dõi mà không làm FNA cũng là một lựa chọn hợp lý
Lành tính
Nốt nang trong suốt
(không có phần đặc)
<1%
Không cần sinh thiết
Bảng 4: phân độ TIRADS cho các nốt tuyến giáp
Tính chất
Độ phản âm
Hình dạng
Bờ
Tích tụ siêu
âm
Nang
0
Phản
0
Chiều
0
Trơn
0
không
0
hoặc
âm
rộng
láng
hầu
trống
lớn
hết
hơn
dạng
chiều
nang
cao
Dạng
0
Tăng
1
Chiều
3
Ill-
0
Tích tụ
1
sponge
hoặc
cao
defined
calci
đẳng
lớn
đại thể
âm
hơn
chiều
rộng
Dạng trộn giữa đặc và
nang
1
Giảm âm
2
Lồi lỏm, không đều
2
Vòng calci ngoại biên
2
Đặc hoặc hầu hết dạng
đặc
2
Rất giảm âm
3
Lan ra khỏi tuyến giáp
3
Có những đốm li ti
3
Điểm
Nguy cơ ác tính (%)
Ngưỡng sinh thiết
(mm)
TR 1
0
0.3
Không sinh thiết
TR 2
2
1.5
Không sinh thiết
TR 3
3
4.8
25
TR 4
4 đến 6
9.1
15
TR 5
7+
35.0
10
Nồng độ Calcitonin huyết tương
Việc đo thường qui nồng độ Calcitonin trên bệnh nhân với bệnh tuyến giáp (có nốt) vẫn đang vấp phải nhiều tranh cải. Tại thời điểm này, chúng tôi đồng thuận với các chuyên gia khác rằng việc đo thường qui nồng độ calcitonin nền trong bệnh nhân giáp không được chứng nhận ở nhiều quốc gia (Mỹ, Canada) vì ở những quốc gia này việc sử dụng phương pháp kích thích pentagastrin như là một xét nghiệm để xác chẩn thì không có. Còn nếu test kích thích pentagastrin có, vài chuyên gia sẽ thích đo thường qui mức độ calcitonin huyết tương trên các bệnh nhân với bệnh nhân giáp, tuy nhiên một vài chuyên gia khác lại không tán đồng việc này. Các lưu ý của ATA không rõ ràng trong việc hướng dẫn đo Calcitonin và cũng không đưa ra các khuyến cáo nào chống lại việc tầm soát bằng đo calcitonin huyết tương.
Nếu mức calcitonin huyết tương nền được đo và vượt ngưỡng 10 pg/ml, nên đo lại calcitonin sau khi đã thực hiện test kích thích pentagastrin (sau khi đã loại trừ được bệnh nhân suy chức năng thận và loại luôn việc bệnh nhân đang uống Ppi)
Nhiều báo cáo đã chỉ ra rằng, đo calcitonin huyết tương nên được thực hiện thường qui trên những bệnh nhân có bệnh nhân giáp để xác định sớm các bệnh nhân với ung thư tuyến giáp dạng tủy giai đoạn sớm và thông qua đó cải thiện độ sống còn. Dĩ nhiên, tỷ lệ dương giả có thể lên đến 59% thậm chí còn cao hơn, và không rõ có vai trò quan trọng hay không trong các u
kích thước nhỏ.
Dữ liệu nghiên cứu việc sử dụng đo lường thường qui calcitonin huyết tương trên các bệnh nhân có bệnh nhân giáp khá lớn từ các nghiên cứu đoàn hệ. Trong một nghiên cứu 1167 bệnh nhân người Pháp với nhân giáp, tỷ lệ của ung thư tuyến giáp dạng tủy trên các bệnh nhân có tăng calcitonin huyết tương so với các bệnh nhân có xét nghiệm calcitonin bình thường là 41.1 và 0.17%, tương ứng.
Trong các nghiên cứu chỉ ra những điểm lợi của việc đo calcitonin, dĩ nhiên đo calcitonin được thực hiện lặp đi lặp lại sau khi bệnh nhân đã sử dụng pentagastrin với mục đích xác định xém
có ung thư tuyến giáp dạng tủy hay loạn sản tế bào C hay không. Như thí dụ này, trong một báo cáo 10.864 bệnh nhân được tầm soát sau năm 1991, có 44 bênh nhân (chiếm 0.4%) có tăng giá trị calcitonin, tất cả đã được xác định bằng phương pháp kích thích pentagastrin và tất cả đã được xác chẩn là mắc ung thư tuyến giáp dạng tủy. Ngược lại, trong một nghiên cứu 10.158 bệnh nhân với các nhân giáp, 5% có tăng calcitonin nền, nhưng chỉ có 20% các bệnh nhân này có tăng chỉ số calcitonin sau khi qua test kích thích pentagastrin, và chỉ 31% trong số các bệnh nhân này mắc ung thư giáp dạng tủy. Trong nghiên cứu này, Calcitonin tỏ ra chính xác hơn nhiều so với FNA để xác định ung thư giáp dạng tủy bởi vì nhiều ung thư có kích thước khá nhỏ. Trong một nghiên cứu tại Pháp, chỉ 2 đến 12 bệnh nhân chẩn đoán bằng phương pháp đo calcitonin có các sang thương dưới 1cm về đường kính hoặc độ lớn, trong đó có 4 bệnh nhân có đường kính ít hơn 0.3cm.
Kết quả dương giả của calcitonin có thể thấy trên các bệnh nhân có tăng calci huyết, tăng gastric máu, u thần kinh nội tiết, giảm chức năng thận, carcinoma giáp dạng tủy và nang, phình giáp, và viêm giáp tự miễn mạn tính. Thêm nữa, các bệnh nhân đang điều trị kéo dài với omeprazole (tức là trên 2 đến 4 tháng), beta blocker, và các glucocorticoid sẽ gây ra tăng calcitonin huyết tương. Thêm nữa, cũng đã có các báo cáo về việc ung thư giáp dạng tủy không tiết Calcitonin nên việc âm tính giả vẫn có thể xảy ra.
PET scan
Các nhân giáp kích thước trên 1cm với tăng hấp thu FDG khu trú được phát hiện tình cờ trên PET scan cần phải được siêu âm định hướng chọc hút FNA. (hình 5). Dĩ nhiên, nếu có một hiện tượng tăng hấp thu FDG và nồng độ TSH thấp, một scan với phóng xạ iod nên được thực hiện để xem xét nếu nhân giáp đó là nhân chức năng (autonomous – tự trị). Nếu đúng là nhân giáp chức năng, thì khả năng là không phải ác tính, tuy nhiên kết luận này vẫn chưa có bằng chứng đủ rõ ràng. Hiện tại các hướng dẫn thực hiện FNA trên các bệnh nhân này là không cần thiết, tiếp cận tối ưu thì vẫn chưa rõ và việc chọc hút FNA là tiếp cận hợp lý để soi sáng vùng chưa rõ ràng này.
Nhiều khối u không triệu chứng phát hiện tình cờ trên PET là ung thư tuyến giáp. Trong một nghiên cứu đánh giá tổn quan hệ thống gồm 22 nghiên cứu khác đánh giá việc tình cờ phát hiện hoạt động tăng sản của tuyến giáp trên PET (1994 bẹnh nhân với các hoạt động tăng chuyển
hóa không mong đợi khu trú ở các vùng trên tuyến giá, 999 bệnh nhân với rối loạn chuyển hóa lan tỏa). Một chẩn đoán đã được xác lập trên 1051 và 168 bệnh nhân, tương ứng với tùng nhóm. Trong số các bệnh nhân có tăng hấp thu FDG khu trú, 366 bệnh nhân trong 1051 bệnh nhân (chiếm 34.8%) có ung thư tuyến giáp so sánh với 7 trong số 168 bệnh nhân (4.4%) với
tăng hấp thu FDG lan tỏa. Giá trị tăng hấp thu đã được chuẩn hóa (SUVmax) là 6.9 và 4.8 để quyết định ác tính và lành tính, tương ứng.
(A) PET-CT trên bệnh nhân ung
thư thực quản, chỉ ra một nốt hoạt động ở vùng cổ. (B) nhân nóng thùy phải tuyến giáp. (C) sinh thiết dưới hướng dẫn của siêu âm. Ca này: ung thư tuyến giáp dạng nhú đã được xác chẩn.
d. Bệnh Grave
Tần suất của các nhân giáp và ung thư trên các bệnh nhân với bệnh Grave đã được khảo sát trong một nghiên cứu đoàn hệ với 245 bệnh nhân (bị Grave chẩn đoán bằng siêu âm). 35% các bệnh nhân này có các nhân giáp, và 3.3% có ung thư tuyến giáp. Nguy cơ ác tính sẽ cao hơn trên các bệnh nhân trên 45 tuổi.
e. Các nốt dạng nang
Phần lớn các nhân giáp dạng nang đều lành tính, hầu hết là các adenoma đang suy biến. Dĩ nhiên, ưng thư tuyến giáp vẫn có thể là dạng nang. Sự hiện diện các đặc điểm nghi ngờ ung thư trên siêu âm có độ nhạy cao hơn so với xét trên kích thước của nhân giáp. Điều trị các nhân giáp dạng nang được thảo luận trong một bài khác.
ĐIỀU TRỊ
Việc điều trị tối ưu trên các bệnh nhân với các nhân giáp rất biến thiên lệ thuộc vào sang thương và liệu rằng nhân giáp có hay không có chức năng.
Mô học FNA
Có 6 phân loại chính trong kết quả từ sinh thiết FNA, mổi loại đi cùng với các cách hướng dẫn điều trị khác nhau. Bảng phân loại chẩn đoán (phân loại Bethesda) (bảng 5) và các chẩn đoán mô bệnh học được thảo luận ở một chuyên đề khác.
Nhân lành tính (Bethesda II)
Các bệnh nhân với nhân lành tính (đa nang hoặc các nhân adenoma/tăng sản, adenoma tạo keo, phình giáp hạt, và viêm giáp Hashimoto) thường chỉ cần theo dõi và không cần phẫu trị. Vẫn có các tranh cải xung quanh vấn đề hiệu quả của điều trị T4 (levothyroxine) trên các bệnh nhân này. Trong các trường hợp bệnh nhân không có tiền sử tiếp xúc chất phóng xạ vùng cổ lúc nhỏ thì không nên điều trị T4.
Chúng tôi thực hiện siêu âm định kỳ cho các nhân lành tính, khởi đầu lần đầu là 12 đến 24
tháng, sau đó giãn dần qua thời gian (vd 2-3 năm), với khoảng thời gian ngắn hơn cho các nhan kích thước lớn hơn hoặc nhân có nhiều đặc diểm cần phải lo lắng trên siêu âm. Làm lại FNA trong vòng 12 tháng nếu các đặc điểm siêu âm nghi ngờ cao bất kể sinh thiết lần trước cho kết quả lành tính.
Các thay đổi nhỏ với kích thước nhân khi kiểm tra định kỳ qua siêu âm không dòi hỏi phải làm lại FNA. Dĩ nhiên tái đánh giá là cần thiết khi có bất kỳ những đặc điểm sau đây:
Phát triển lớn (hơn 50% khi xét về thể tích, hoặc 20% tăng trong đường kính nhân với tăng tối thiểu 2mm)
Sự hiện diện của các đặc điểm nghi ngờ trên siêu âm
Triệu chứng mới xuất hiện do nhân gây ra
Nếu một nhân được FNA lại và mô học lần 2 vẫn là lành tính, đánh giá bằng siêu âm của nhân đặc biệt này cho các nguy cơ ác tính không cần thiết nữa.
Cơ sở lý luận cho việc khuyến cáo theo dõi vừa nêu
Mục đích của theo dõi là để xác đinh sự phát triển của nhân, nhằm xác định xem có phải nhân lành tính giả hay không. Dĩ nhiên, tỷ lệ âm giả của kết quả lành tính tương đối rất thấp, (0-10%). Điều này được chỉ ra trong 2 nghiên cứu với cỡ mẫu 250 bệnh nhân được làm FNA lặp lại thường qui; chỉ một nhân lành tính trước đó hóa ác khi làm lại FNA (0.4%). Trong một báo cáo của một nghiên cứu thứ 3, 3 trong số 216 bệnh nhân (1.4%) có ung thư tuyến giáp dạng nhú khi làm lại sinh thiết.
Hóa ác rất hiếm mặc dù cá nhân giáp lành tính có thể tăng và phát triển. Sự thoái triển của các nhân nang và xuất huyết trong nang là các nguyên nhân phổ biến nhất của việc đột nhiên thấy nhân to lên và có thể được phát hiện (thoái triển và xuất huyết) thông qua siêu âm hay chọc hút lại. Trong một nghiên cứu hồi cứu ở Ý, về bản chất của các nhân giáp, 992 bệnh nhân giảm bắt iod nhẹ đến trung bình (không có yếu tố nguy cơ ung thư) với 1567 nhân được theo dõi bằng siêu âm trong 5 năm. Sự lớn lên của các nhân cũng
như sự co lại của các nhân đã xảy ra ở 15.5 và 18.5 bệnh nhân tùng nhóm, tương ứng. Trong số 630 nhân (40.2%) mà được xếp là lành tính dựa trên kết quả mô học, chỉ 4 nhân sau đó được phát hiện là K giáp nhú.
Một nghiên cứu hồi cứu đánh giá tốc độ phát triển của 126 nhân giáp ác tính được theo dõi ít nhất 6 tháng (trung bình 21 tháng) trước khi phẫu trị so sánh với 1363 nhân lành tính, đã tìm thấy kết quả rằng 26% nhân ác tính và 12% nhân lành tính tăng kích thước hơn 2mm mổi năm, với nguy cơ tương đối của tăng ác tính từ 1.85 lên 5.05 cho tốc dộ phát triển hơn 2mm đến hơn 8mm mổi năm, tương ứng
Tần suất theo dõi bằng siêu âm
Khoảng thời gian thích hợp để làm lại siêu âm cũng đã có nhiều nghiên cứu chỉ ra. Trong một nghien cứu hồi cứu 1369 bệnh nhân với 2010 nhân lành tính xác định bằng mô học., được theo dõi trung bình 8.5 năm. Trong số 325 bệnh nhân bị cắt tuyến giáp bán phần mặc dừ lành tính, 45bệnh nhân ( chiếm 14%) đã được cắt bởi vì mô học trở nên bất thường khi thực hiện lại FNA (trên cùng nhân trước đó – thực hiện lại FNA bởi vì thấy nó lớn lên). 18 kết quả FNA âm tính giả (1.3%) đã được xác định (16 ca ung thư dạng nhú, 1 dạng nang, 1 ca ung thư dạng khác tiên lượng kém), và thời gian kể từ khi xác định là lành tính bằng mô học cho đến khi cắt tuyến giáp là 4.5 năm. Không có bệnh nhân nào di căn xa hơn, và tất cả sống tốt và không ghi nhận tái phát qua khoảng thời gian theo dõi 11 năm.
Kết quả mô học trung gian (Bethesda III và IV)
Khi kết quả mô học cho thấy sang thương dạng nang/ không điển hình hoặc loạn sản sạng nang., các kết quả này thường đực gọi là kết quả mô học trung gian – vùng xám (Indeterminate cytology). Việc đánh giá sẽ bao gồm thực hiện các xét nghiệm phân tử, sẽ được thảo luận trong một bài khác.
Nghi ngờ ác tính (Bethesda V)
Đây là phân loại cho các sang thương có nhiều đặc điểm nghi ngờ nhưng vẫn không thể xác định là ác tính (ung thư dạng nhú hay các ung thư khác). Điển hình, các nhân trong phân loại này có từ 50 đến 75% nguy cơ sẽ ác tính hoặc loạn sản giáp dạng nang không xâm lấn với các đặc điểm nhân giống dạng nhú. Các bệnh nhân này nên được phẫu trị. Các marker phân tử không nên được thực hiện trong phân loại này.
Ác tính (Bethesda VI)
Phân loại ác tính bao gồm các phân khúc sau: K dạng nhú, K giáp dạng tủy, lymphoma tuyến giáp, K giáp không biệt hóa, và ung thư chổ khác như di căn đến tuyến giáp. Các bệnh nhân này nên được phẫu trị.
Với các bệnh nhân mô học cho thấy vi carcinoma giáp dạng nhú, chưa lan ra hạch cổ, hoặc các yếu tố làm điểm số tăng cao, việc giáp sát theo dõi chặt chẽ có thể ưu tiên hơn là phẫu trị đặc biệt trên các bệnh nhân có bệnh đồng mắc mà làm cho cuộc phẫu trị có nhiều nguy cơ cho bệnh nhân.
Không chẩn đoán được (Bethesda I)
Một sinh thiết được gọi là không thể chẩn đoán là nó vắng mặt sự hiện diện của các tế bào ác tính nhưng không thể kết luận là âm tính khi cũng không có hoặc có nhưng cực kỳ ít mô dạng nang trên kết quả. Với các bệnh nhân này chúng tôi làm lại FNA sau 4-6 tuần và dưới hướng
dẫn của siêu âm. Trong một nghiên cứu, việc làm lại FNA với hướng dẫn siêu âm đã cải thiện rõ rệt kết quả mô học phát hiện các nhân dạng đặc và dạng nang.
Nếu làm lại Fna dưới dướng dẫn của siêu âm vẫn không chẩn đoán ra, sinh thiết dưới siêu âm bằng core-needle nên được xem xét. Trong một nghiên cứu sinh thiết bằng core-needle cho kết quả 86% so với 29% FNA thường.
Phẫu trị thám sát, đặc biệt trên các nhân đặc, lớn với nhiều đặc điểm siêu âm nghi ngờ, hoặc chỉ theo dõi, đặc biệt trên các nhân nhỏ, nang bán phần sẽ là hợp lý cho các trường hợp chưa chẩn đoán ra. Nếu nhân phát triển ( trên 20% trong 2 kích thước trên siêu âm) được phát hiện, phẫu trị thám sát chẩn đoán nên được thực hiện.
Trong một nghien cứu 2234 bệnh nhân làm FNA, 352 bệnh nhân (16%) thuộc nhóm không chẩn đoán ra. Trong số các nhân không được chẩn đoán ra, 42% vẫn không ra trong lần FNA thứ 2, và 68% vẫn không ra trong lần FNA thứ 3. Trong khi đó, bằng phương pháp phẫu trị giám sát (đương nhiên không phải làm ở tất cả các nhân), tỷ lệ phát hiện được K giáp dạng nhú là 8%.
Các nhân giáp tự trị (nhân chức năng)
Điều trị cho các nhân này vẫn còn đang bị tranh cải. Với các bệnh nhân mà có tình trạng cường giáp do các nhân tự trị này thì nên điều trị bằng phóng xạ iod, phẫu thuật hoặc thuốc kháng giáp.
Các bệnh nhân cường giáp dưới lâm sàng (giảm TSH và T4 bình thường) là một vấn đề khó. Cường giáp dưới lâm sàng sẽ làm tăng nguy cơ rung nhĩ trên các bệnh nhân trên 60 tuổi, phụ nữ sau mãn kinh, giảm mật độ xương. Việc điều trị sẽ tùy vào nguy cơ lâm sàng xuất hiện các biến chứng do cường giáp dưới lâm sàng gây ra và ,mức độ giảm của TSH là bao nhiêu.
Các nhân giáp dạng nang
Điều trị các nhân này khá nan giải. nhiều bệnh nhân có nang nhỏ với nhóm mô học là không chẩn đoán có thể theo dõi như là một nhan lành tính. Trong vài bệnh nhân , dĩ nhiên tái phát chảy máu, hoặc tái lập nang có thể là khởi nguồn của sự bất an, lo lắng, hoặc hiếm nữa là xuất hiện các triệu chứng tắc nghẽn.
Các kỹ thuật hủy nhân
Các nhân lành tính, tự trị, và nhân dạng nang có thể được điều trị bằng tiêm ethanol hoặc gây xơ hóa dưới hướng dẫn của siêu âm hoặc trực tiếp bằng năng lượng của siêu âm. Các cách tiếp cận này không được chấp nhận phổ biến ở Hoa Kỳ, bởi vì các biến chứng tiềm ẩn, bao gồm: thỉnh thoảng có các báo cáo sẽ có những bệnh nhân bị đau kéo dài sau thủ thuật. Về các kỹ thuật nãy sẽ được nói ở một chuyên đề khác.